GS nhà giáo Lê Khánh Bằng, nguyên Giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội I được nhiều người biết không chỉ là nhà phương pháp trong giáo dục học mà còn biết đến bởi sự uyên bác vì ông có thể giảng bài bằng 6 thứ tiếng khác nhau: Anh, Pháp, La Tinh, Nga, Trung Quốc và Bồ Đào Nha. Điều đáng nói là 6 thứ tiếng này phần lớn do GS tự học bằng phương pháp: Thiền.
Thiền là gì?
Thiền là khoa học. Thiền không đồng nghĩa với tôn giáo. Đó là sự tập trung cao độ không cho tạp niệm xen vào, giúp ý chí sáng suốt, phù hợp với tất cả mọi người. Việc hành thiền đem lại rất nhiều lợi ích về sức khỏe và tinh thần, ở khía cạnh việc dạy và học, thiền như một phương pháp phát huy cao độ khả năng tập trung của người học.
Do ảnh hưởng của văn hoá nghe nhìn, người học rất dễ rơi vào tình trạng thiếu tập trung, lười suy nghĩ và ghi nhớ kém. Thiền sẽ giúp tăng cường trí nhớ, nâng cao tính linh hoạt và chính xác của tư duy.
Cái chính trong phương pháp này là phải tạo ra được một vùng ngoại ngữ trong vỏ não. Trẻ em học ngoại ngữ thì trung khu ngoại ngữ sẽ được hình thành hài hoà trên vùng trung khu tiếng mẹ đẻ; người lớn tuổi học ngoại ngữ thì hai trung khu này tách biệt nhau. Vì vậy, ở người lớn tuổi, để làm chủ ngoại ngữ, phải tạo nên một vùng ngoại ngữ trong vỏ não.
Muốn vậy, phải tập trung tư tưởng cao độ khi học, đều đặn 1, 2 giờ/ ngày, lúc học chỉ được nghĩ và nói bằng ngoại ngữ để chủ động ức chế trung khu tiếng mẹ đẻ. Việc này giúp tạo vùng ngoại ngữ ổn định, đủ mạnh để không bị trung khu tiếng mẹ đẻ ức chế hoặc xoá bỏ.
Theo thầy Bằng, kết hợp thiền với 5 bước chuyển vào trong và 5 bước chuyển ra ngoài sẽ phát triển 5 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và nhất là suy nghĩ bằng ngoại ngữ. Vấn đề cần trình bày sẽ được nói, đọc, viết ra trong óc vài lần, tạo nên một chuỗi các yếu tố tư duy, khi bạn động đến một mắt xích nào đó thì cả chuỗi đó sẽ bật ra ngay lập tức. Đó chính là “đột phá một điểm, khai thông toàn diện”.
Năm bước chuyển vào trong
Bước 1: Sau khi thư giãn và tập trung tư tưởng cao độ, học viên đọc thật to (đúng trọng âm và ngữ điệu) để tạo nên một khu vực hưng phấn mạnh trong vỏ não và nhằm góp phần ức chế vùng tiếng mẹ đẻ. Có thể đọc to như vậy 3 đến 5 lần hoặc hơn càng tốt. Lúc này cần đọc to và đúng chứ chưa cần đọc nhanh.
Bước 2: Đọc to vừa, đúng ngữ điệu, tốc độ có thể nhanh dần lên. Đọc như vậy 3 đến 5 lần hoặc hơn.
Bước 3: Đọc mấp máy môi có âm thanh và ngữ điệu vang lên nho nhỏ. Đọc 3 đến 5 lần, tốc độ nhanh nhất có thể được. Làm như vậy để cho khu vực hưng phấn mạnh, nhưng rất khuyếch tán lúc ban đầu nay tập trung dần lại.
Bước 4: Đọc trong óc, còn gọi là đọc liếc hay đọc thầm. Lúc này môi không mấp máy, âm thanh không phát ra, nhưng người đọc vẫn phải cảm thấy âm thanh và ngữ điệu vang lên trong óc. Đọc như thế nhiều lần, có thể từ 10 đến 100 lần, cho đến khi thuộc lòng hẳn, tốc độ ngày càng nâng lên.
Bước 5: Bước quan trọng và quyết định nhất. Đọc thuộc lòng trong óc nhiều lần để hằn sâu vào trong vỏ não, để đặt được một viên gạch vào vùng ngoại ngữ mới xây dựng. Bước này có thể tiến hành theo trình tự, nhẩm đọc trong óc, lúc đầu từ từ sau đó tăng dần lên đến mức nhanh nhất có thể được (ví dụ một bài khoá khoảng 130 từ: 15 – 30 giây), nếu chưa đạt được tốc độ như thế phải luyện tập tiếp.
Năm bước chuyển ra ngoài:
Bước 1: Đọc trong óc.
Bước 2: Đọc mấp máy môi.
Bước 3: Đọc to vừa, tốc độ nhanh và rất nhanh.
Bước 4: Đọc to đúng trọng âm, đúng ngữ điệu với tốc độ nhanh nhất không sai sót.
Bước 5: Tập trung tư tưởng cao độ, viết ra giấy với tốc độ nhanh nhất, tối thiểu 2 dòng/ phút hoặc trình bày thật lưu loát, diễn cảm, điệu bộ như người bản địa.
GS Lê Khánh Bằng đã khái quát hoá quá trình học ngoại ngữ bằng một sơ đồ công thức: 3T, 5B, 5C, 2H, 3V. (3T là thiền, tần số và tốc độ; 5B là 5 bước chuyển vào trong và ngược lại; 5C là 5 chỉ tiêu của chất lượng học ngoại ngữ: nghe, nói, đọc, viết, suy nghĩ bằng ngoại ngữ; 2H là 2 chỉ tiêu của hiệu quả; 3V là 3 vùng ngoại ngữ: tối thiểu, cơ bản và chuyên ngành). Để biến tất cả những yêu cầu phương pháp thành hiện thực thì quá trình tự học vẫn là then chốt của thành công.
Thiện Nhân (Tổng hợp)