IELTS là một trong những kỳ thi kiểm tra trình độ tiếng Anh phổ biến nhất trên thế giới nhằm đáp ứng cho nhu cầu học tập, làm việc và sinh sống ở các nước sử dụng tiếng Anh. Sở hữu một chứng chỉ IELTS với điểm số ấn tượng có thể giúp bạn tạo ấn tượng hơn với các nhà tuyển dụng. Kết quả của kỳ thi IELTS được công nhận bởi hơn 9000 tổ chức giáo dục, công ty và các tổ chức chính phủ trên gần 135 quốc gia.
Chuyên mục “Ngân hàng IELTS” đem đến cho bạn đọc những kiến thức, tài liệu, hướng dẫn hữu ích, mong muốn chia sẻ và đồng hành với người học trong suốt hành trình chinh phục IELTS.
***
Dưới đây là nội dung bản dịch phần Reading Test 1 – Cambridge IELTS 01:
A Spark, A Flint: How Fire Leapt To Life
The control of fire was the first and perhaps greatest of humanity’s steps towards a lifeenhancing technology.
Khả năng điều khiển ngọn lửa là bước phát triển đầu tiên và có lẽ lớn lao nhất của con người về công nghệ nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
To early man, fire was a divine gift randomly delivered in the form of lightning, forest fire or burning lava.
Đối với con người thời sơ khai, lửa là một món quà thiêng liêng được ngẫu nhiên ban tặng theo hình thức tia chớp, cháy rừng hoặc dung nham nóng chảy.
Unable to make flame for themselves, the earliest peoples probably stored fire by keeping slow burning logs alight or by carrying charcoal in pots.
Không thể tạo ra ngọn lửa cho bản thân họ, con người thời sơ khai nhất đã trữ lửa trong ngôi nhà tiền chế của họ bằng cách giữ cho những khúc cây mới đốn cháy âm ỉ hoặc bằng cách đựng than trong hũ.
How and where man learnt how to produce flame at will is unknown.
Không ai biết bằng cách nào và từ khi nào mà con người đã học cách tạo ra ngọn lửa theo ý muốn.
It was probably a secondary invention, accidentally made during tool-making operations with wood or stone.
Đó có lẽ là một phát minh đi theo sau một cách tình cờ trong hoạt động chế tạo dụng cụ bằng gỗ hoặc đá.
Studies of primitive societies suggest that the earliest method of making fire was through friction.
Các nghiên cứu về xã hội nguyên thủy đưa giả thuyết rằng phương pháp sơ khai nhất để tạo ra lửa là thông qua sự ma sát.
European peasants would insert a wooden drill in a round hole and rotate it briskly between their palms .
Những người nông dân Châu Âu có thể đã đút những cái khoan gỗ/ những thanh gỗ tròn vót nhọn đầu vào một lỗ tròn và xoay nhanh nó giữa hai lòng bàn tay của họ.
This process could be speeded up by wrapping a cord around the drill and pulling on each end.
Quy trình này có thể đã được tăng tốc hơn bằng cách quấn một dây thừng quanh thanh gỗ và kéo mỗi đầu của nó.
The Ancient Greeks used lenses or concave mirrors to concentrate the sun’s rays and burning glasses were also used by Mexican Aztecs and the Chinese.
Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng thấu kính hoặc gương hình lòng chảo để hội tụ tia nắng mặt trời, và kính hội tụ cũng đã được người Mexican Aztecs và người Trung Quốc sử dụng.
Percussion methods of fire-lighting date back to Paleolithic times, when some Stone Age toolmakers discovered that chipping flints produced sparks.
Phương pháp đánh lửa có từ thời kỳ Đồ Đá Cũ/ thời kỳ Đồ Đá sơ khai, khi một số người sáng chế công cụ thời kỳ Đồ Đá khám phá ra rằng những viên đá nhỏ trên đường có thể tạo ra tia lửa.
The technique became more efficient after the discovery of iron, about 5000 years ago .
Kỹ thuật trở nên hiệu quả hơn sau khi sắt được phát hiện cách đây khoảng 5000 năm.
In Arctic North America, the Eskimos produced a slow-burning spark by striking quartz against iron pyrites, a compound that contains sulphur.
Tại cực Bắc Bắc Mỹ, người Eskimo đã tạo ra được tia lửa cháy chập chờn bằng cách đánh thạch anh với pyrit sắt, một hợp chất chứa sulphur.
The Chinese lit their fires by striking porcelain with bamboo. In Europe, the combination of steel, flint and tinder remained the main method of fire-lighting until the mid 19th century.
Người Trung Quốc thì thắp lửa bằng cách đánh men sứ với tre. Ở Châu Âu, hợp chất thép, đá lửa và bông bùi nhùi vẫn là phương pháp chính để tạo ra lửa cho đến giữa thế kỷ 19.
Fire-lighting was revolutionised by the discovery of phosphorus, isolated in 1669 by a German alchemist trying to transmute silver into gold.
Việc thắp lửa đã được cách mạng hóa cùng sự khám phá ra chất photpho, được phân lập ra vào năm 1669 bởi một nhà giả kim người Đức trong lúc đang cố gắng chuyển hóa bạc thành vàng.
Impressed by the element’s combustibility, several 17th century chemists used it to manufacture fire-lighting devices, but the results were dangerously inflammable.
Ấn tượng bởi tính dễ cháy của nguyên tố này, vài nhà hóa học thế kỷ 17 đã sử dụng nó để sản xuất những dụng cụ đánh lửa, nhưng thành quả quá nguy hiểm vì đặc tính dễ cháy.
With phosphorus costing the equivalent of several hundred pounds per ounce, the first matches were expensive.
Với chất photpho giá thành tương đương vài trăm pound một ounce, những cây diêm rất tốn kém.
The quest for a practical match really began after 1781 when a group of French chemists came up with the Phosphoric Candle or Ethereal Match, a sealed glass tube containing a twist of paper tipped with phosphorus.
Công cuộc tìm kiếm một cây diêm thực tiễn hơn thực sự bắt đầu sau 1781 khi một nhóm nhà hóa học Pháp nảy ra ý tưởng về Nến photpho hay diêm ete, một ống thủy tinh được bịt kín chứa những cuộn xoắn giấy được nhúng một đầu vào photpho.
When the tube was broken, air rushed in, causing the phosphorus to self-combust. Khi ống bể, không khí lùa vào, làm photpho tự đốt cháy. An even more hazardous device, popular in America, was the Instantaneous Light Box — a bottle filled with sulphuric acid into which splints treated with chemicals were dipped.
Một công cụ thậm chí nguy hiểm hơn, thông dụng ở Mỹ, đó là hộp quẹt tức thời có những thanh nẹp đã được xử lý hóa chất ngâm trong 1 cái lọ đựng dung dịch acid sulphuric.
The first matches resembling those used today were made in 1827 by John Walker, an English pharmacist who borrowed the formula from a military rocket-maker called Congreve.
Những que diêm đầu tiên giống với diêm được sử dụng ngày nay đã được tạo ra vào 1827 bởi John Walker, một nhà hóa được người Anh mượn công thức từ một động cơ tên lửa quân đội có tên gọi là Congreve.
Costing a shilling a box, Congreves were splints coated with sulphur and tipped with potassium chlorate.
Tốn một đồng si-ling cho mỗi cái khuôn/ hộp ống lót, tên lửa Congreve có các thanh nẹp được mạ sulphur và nhúng một đầu với Kali Clorat.
To light them, the user drew them quickly through folded glass paper.
Để thắp sáng chúng, người dùng kéo nhanh chúng đi qua giấy nhám được gập lại.
Walker never patented his invention, and three years later it was copied by a Samuel Jones, who marketed his product as Lucifers.
Walker không bao giờ lấy bằng sáng chế cho phát minh của ông ta, và ba năm sau, phát minh bị sao chép bởi Samuel Jones, người đã bán sản phẩm với tên gọi Lucifers.
About the same time, a French chemistry student called Charles Sauria produced the first ―strikeanywhere‖ match by substituting white phosphorus for the potassium chlorate in the Walker formula.
Khoảng cùng thời gian, một sinh viên hóa học người Pháp tên Charles Sauria đã sản xuất diêm ―quẹt mọi lúc‖ đầu tiên bằng cách thay thế Kali Clorat bằng photpho trắng trong công thức của Walker.
However, since white phosphorus is a deadly poison, from 1845 match-makers exposed to its fumes succumbed to necrosis, a disease that eats away jaw-bones.
Tuy nhiên, bởi vì photpho trắng là một chất độc chết người, từ năm 1845 các nhà sản xuất diêm bị phơi nhiễm khói photpho đã chết vì hoại tử, một loại bệnh ăn mòn xương hàm.
It wasn’t until 1906 that the substance was eventually banned.
Mãi đến năm 1906 chất này cuối cùng bị cấm.
That was 62 years after a Swedish chemist called Pasch had discovered non-toxic red or amorphous phosphorus, a development exploited commercially by Pasch’s compatriot J E Lundstrom in 1885.
62 năm sau khi một nhà hóa học Thụy Điển tên Pasch khám phá ra chất photpho không độc, đó là photpho đỏ hay photpho không kết tinh, việc phát triển được khai thác kinh doanh bởi người đồng hương của Pasche là J E Lundstrom vào năm 1885.
Lundstrom’s safety matches were safe because the red phosphorus was non-toxic; it was painted on to the striking surface instead of the match tip, which contained potassium chlorate with a relatively high ignition temperature of 182 degrees centigrade.
Những que diêm của Lundstrom an toàn bởi vì chất photpho đỏ là một chất không độc; chất này được phủ lên bề mặt dùng để đánh diêm, thay vì phủ lên đầu que diêm có chứa Kali Clorat với một nhiệt độ đốt cháy tương đối cao 182 độ C.
America lagged behind Europe in match technology and safety standards.
Nước Mỹ đi sau châu Âu trong công nghệ diêm và tiêu chuẩn an toàn.
It wasn’t until 1900 that the Diamond Match Company bought a French patent for safety matches — but the formula did not work properly in the different climatic conditions prevailing in America and it was another 11 years before scientists finally adapted the French patent for the US.
Mãi đến năm 1990, Công ty Diêm Kim Cương mới mua một bằng sáng chế Pháp để sản xuất diêm an toàn – nhưng công thức đã không vận hành chính xác trong điều kiện khí hậu khác biệt phổ biến ở nước Mỹ, và đã mất thêm 11 năm trước khi các nhà khoa học cuối cùng điều chỉnh bằng sáng chế Pháp cho phù hợp với nước Mỹ.
The Americans, however, can claim several ―firsts‖ in match technology and marketing.
Tuy nhiên, người Mỹ có thể khẳng định một vài ―thành tích đầu tiên‖ trong công nghệ và việc tiếp thị que diêm. In 1892 the Diamond Match Company pioneered book matches. Vào năm 1892 Công ty Diêm Kim Cương đã tiên phong cho ra những bao diêm xếp gập.
The innovation didn’t catch on until after 1896, when a brewery had the novel idea of advertising its product in match books.
Sự đổi mới đã không trở nên nổi tiếng cho đến sau 1896, khi một nhà máy bia có ý tưởng mới lạ trong việc quảng bá sản phẩm của nó trong bao diêm xếp gập.
Today book matches are the most widely used type in the US, with 90 percent handed out free by hotels, restaurants and others.
Ngày nay bao diêm xếp gập là loại được sử dụng rộng rãi ở Mỹ, với 90% được các khách sạn, nhà hàng và số khác phát miễn phí.
Other American innovations include an anti-afterglow solution to prevent the match from smouldering after it has been blown out; and the waterproof match, which lights after eight hours in water.
Những đổi mới khác của Mỹ bao gồm giải pháp chống cháy sáng sau sử dụng nhằm ngăn que diêm cháy âm ỉ sau khi nó được thổi tắt; và loại que diêm chống nước có thể cháy sáng sau 8 tiếng dưới nước.
Thùy Trang (IELTS 8.0, Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp giảng dạy Tiếng Anh)