Thời xưa người làm nghề y không nhiều, mà nữ lương y lại càng hiếm hoi. Ấy vậy trong sử sách có ghi chép về hai nữ danh y mà nhân dân hết mực kính ngưỡng, sau khi mất được lâp đền thờ hương khói không dứt để tưởng nhớ ân đức cứu người.
Hoàng tràng công chúa: Hết lòng vì nước vì dân, chẳng màng danh lợi
Nữ danh y được ghi chép sớm nhất trong lịch sử có lẽ là bà Lê Thị Liên, sống vào đầu thời nhà Trần. Sinh trưởng trong gia đình có truyền thống nghề y, bà học nghề thuốc từ cụ thân sinh Lê Hoằng.
Hữu xạ tự nhiên hương, trong quá trình bốc thuốc cứu người, tài năng và y đức của bà đã vang tiếng gần xa. Tại đình Cao, nơi thờ nữ danh y Lê Thị Liên vẫn còn bài phú nói lên tài năng và danh tiếng của bà:
“Nối nghiệp cha xưa,
Có cây gậy trúc.
Có quả thạch bầu,
Với phương thuốc nhiệm màu, kiến hiệu.
“Năm cứu thế gian”,
Tiếng lương y đồn đại.
“Viễn cận mạc bất tri danh”…
Bấy giờ, ở phía Bắc quân Mông Nguyên chưa bao giờ thôi dòm ngó, đất nước Đại Việt phải đối mặt với cuộc xâm lăng lần thứ 2. Tuy tình thế nguy cấp, nhưng toàn dân tộc từ trên xuống dưới đều đồng lòng chung sức.
Cuộc kháng chiến diễn ra vô cùng khốc liệt, bên cạnh giặc ngoại xâm, quân dân nhà Trần còn phải đương đầu với dịch bệnh phát sinh, khiến sức chiến đấu giảm sút, đặc biệt là trận quyết chiến ở sông Lục Đầu (gần Kiếp Bạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay).
Triều đình rất lo lắng sợ bệnh tật sẽ làm giảm sức chiến đấu của binh tướng, nhiều lương y được vời đến nhưng tình hình không mấy khả quan.
Tiếng lành đồn xa, nghe danh Lê Thị Liên, vua Trần Nhân Tông liền cho người cấp tốc về làng Thanh Nộn triệu bà đến phong cho chức Quân trung điều hộ, lo việc bào chế thuốc chữa bệnh.
Nhờ có những phương thuốc của nữ danh y mà sức khỏe của quân lính được phục hồi, góp phần quan trọng vào những trận đánh đưa đến thắng lợi cuối cùng, quả là:
Nhờ thuốc thần cứu chữa.
Bình phục mọi bệnh binh,
Quân mạnh, tướng hùng.
Vua tôi đoàn kết,
Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Lệnh phản công đã quyết,
Ngọn sóng Bạch Đằng,
Ô Mã Nhi thất bại,
Đại thắng quân Nguyên.
Đến khi đất nước đã sạch bóng giặc ngoại xâm, nhân dân an hưởng thái bình, bà Lê Thị Liên xin được về quê tiếp tục hành nghề chữa bệnh cứu người. Triều đình nhớ đến công tích của bà đã phong thưởng trọng hậu, vua Trần còn xuống chiếu sắc phong bà danh hiệu Hoàng Tràng công chúa.
Thế nhưng một lòng vì nước vì dân, không màng danh lợi, giàu sang phú quý, nữ danh y nhất quyết về quê hành nghề giúp đời, những tiền bạc được ban thưởng bà đều mang chia cho dân làng để họ có vốn là kế sinh nhai.
Sau khi bà mất, người dân tưởng nhớ ân đức đã lập đền thờ hương khói quanh năm. Bài phú ở cửa đình như lời tiếc thương và sùng kính đối với vị nữ danh y tài đức vẹn toàn:
Ngao ngán thay, ngày 12 tháng 8,
Hổ gào, beo thét, công chúa quy tiên.
Trông lên trời, mây vàng xuất hiện,
Giây phút rồi tan đi.
Nghe rừng sâu gió thổi vu vi,
Như vẳng tiếng tiên thiều nhã nhạc.
Từ ngày ấy!
Dân ta thờ công chúa tại đình Cao,
Nhớ mãi công lao người danh y đại đạo.
Để đời đời dân cầu, quốc đảo.
Ngọc nữ giáng trần, lưu lại truyền thuyết chốn nhân gian
Năm tháng dài lâu khiến ký ức cũng không tránh khỏi bị phủ bụi, những thần tích xa xưa nay đã trở thành truyền thuyết, nhưng đền thờ, câu đối vẫn còn đó, gợi lại cho chúng ta một thời kỳ huy hoàng. Ở những nơi thờ tự nữ danh y Trần Ngọc Trân, các câu đối đều mang nội dung ca ngợi sự ra đời kỳ lạ cũng như tài y dược của bà, như câu đối sau:
Ngọc nữ giáng trần, thanh dạ tinh quang truyền dị tích,
Kim đan cứu thế, Tiên châu dục tú xuất thần minh.
Nghĩa là:
Ngọc nữ giáng trần, sao sáng trời khuya còn truyền dấu lạ,
Kim đan cứu thế, châu Tiên khí tốt sinh bậc thánh thần.
Chuyện kể rằng, đến khoảng thời gian cai trị của vua Trần Hiến Tông (1329-1341), tại làng Vô Hoạn, tổng Đồng Phù, thuộc phủ Thiên Trường (nay là thôn Vô Hoạn, xã Nam Mỹ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) có gia đình ông Trần Tông Môn và vợ người họ Đoàn ăn ở nhân đức.
Theo ghi chép lại, vào một đêm, người vợ của ông Trần Tông Môn nằm mộng thấy một sứ giả mặc áo xanh đến đưa mình lên thiên đình, được Ngọc Hoàng thượng đế giáng chỉ sai đệ tam ngọc nữ giáng sinh vào nhà họ Trần để sau này cứu dân độ thế.
Bà Đoàn thị giật mình tỉnh dậy, thấy trong phòng dường như vẫn còn thoang thoảng mùi hương xạ, phía ngoài cửa sổ vằng vặc ánh trăng khuya. Bà liền bước ra sân ngắm trăng, bỗng thấy một dấu hài bèn đưa chân ướm thử vào đó, chợt thấy tâm hồn xao xuyến, từ đó có thai, tròn một năm mới sinh hạ được một người con gái.
Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhân nghĩ đến giấc mộng Ngọc nữ giáng trần, họ bèn đặt tên con là Ngọc Trân. Đời sau có câu rằng:
Cung trời ứng mộng,
Điềm báo ướm hài.
Bùa thiêng thuốc tốt,
Giúp nước cứu dân.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, Ngọc Trân trở thành thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, công dung ngôn hạnh đủ cả; nhiều gia đình đánh tiếng xin hỏi cưới nhưng nàng nhất quyết từ chối, không đi lấy chồng mà chỉ chú tâm học nghề dệt vải và làm thuốc chữa bệnh.
Với trí thông minh sẵn có, lại chăm chỉ đọc các sách y dược, học hỏi thêm các bậc lương y khắp vùng nên dần dần Trần Ngọc Trân trở thành một người tinh thông y lý, giỏi đoán bệnh, chế thuốc; với tài năng và hiểu biết đó, bà đã giúp người dân trong vùng chữa khỏi nhiều căn bệnh quái ác.
Đặc biệt, bà Ngọc Trân chế “Hồng ngọc sương hoàn” để trị bệnh dịch tả, chính nhờ công hiệu của loại thuốc này mà trong trận dịch năm Nhâm Dần (1362) nhiều người dân đã được cứu, năm đó vua Trần Dụ Tông đã ra lệnh cấp gạo, phát “Hồng Ngọc sương hoàn” cho dân ở hạt Tam Đới (nay thuộc Phú Thọ) và phủ Thiên Trường (nay thuộc Nam Định).
Ngoài “Hồng ngọc sương hoàn”, Trần Ngọc Trân còn chế loại thuốc trừ bệnh tả bằng cách tán nhỏ nhiều vị thuốc Nam rồi cuốn lại trong một mảnh giấy bản dài bằng ngón tay.
Loại thuốc này bà căn dặn người dân luôn đeo trong mình có thể tránh được bệnh tả truyền nhiễm, dần dần dân gian quen gọi nó là “bùa thuốc” vì giống như đeo bùa trừ tà ma.
Để có nơi khám chữa bệnh, bà Ngọc Trân cho dựng y quán ở phía Bắc đầu làng Vô Hoạn, đây cũng là nơi chế thuốc, bán thuốc.
Truyền rằng y quán dường như được phúc lành che trở, mỗi lần Ngọc Trân phơi thuốc, các buổi trưa hè thường có những cơn mưa bất chợt theo mùa, điều lạ kỳ là xung quanh thì mưa to nhưng nội vi trong khuôn viên của y quán thì vẫn nắng, trời khô ráo, không một giọt nước nào rơi vào.
Trở thành một lương y danh tiếng vang khắp nơi, người dân tứ xứ có bệnh gì đều tìm đến nhờ bà Ngọc Trân, đến y quán xin thuốc, mua thuốc, nhất là “bùa thuốc” rất đông và đều khỏi bệnh.
Ban đầu khu vực gần y quán do có nhiều người tìm đến chờ mua thuốc, khám bệnh đã xuất hiện vài ba hàng quán nước, bán trầu, bán quà bánh; dần dần các hàng quán ngày càng nhiều trở thành chợ, dân chúng quen gọi là chợ Bùa và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Truyền thuyết kể rằng, khi đến hạn về trời, Trần Ngọc Trân ra một khoảng đất ở xứ Đồng Quang rồi hóa ở đó, người dân chỉ thấy chiếc nón cói úp xuống chứ không thấy hình hài bà đâu, họ bèn xây lăng tưởng niệm gọi là lăng Mẫu.
Ghi nhớ ơn đức dùng thuốc cứu người, nhân dân còn lập đền thờ tại y quán cũ, gần chợ Bùa và gọi là đền Đồng Phù, nơi bà hiển thánh; còn ở thôn Vô Hoạn, nơi sinh thánh cũng có đền thờ gọi là đền Vô Hoạn suy tôn bà làm Thánh Mẫu.
Hàng năm, lễ hội tưởng nhớ Thánh Mẫu Đồng Phù diễn ra từ ngày mồng 10 đến 15/3 âm lịch với nhiều nghi thức và tiết mục đặc sắc như lễ rước kiệu ra lăng Mẫu, tế lễ (tế Nữ quan, tế Nam quan), hầu bóng, hát văn, múa mồi, múa hoa, cờ người, cờ bỏi…
Đây là một hội lớn ở xứ Thành Nam xưa (Nam Định ngày nay), chỉ xếp sau hội Phủ Giày.
Đã 700 năm trôi qua, thời gian dẫu có thể khiến vật đổi sao dời nhưng chẳng thể chôn vùi danh tiếng người đức độ, không phân biệt nam nữ, chẳng phân biệt sang hèn. Đền thờ, câu đối, lễ hội, những câu chuyện vẫn còn đó, như một nhân chứng sống về ân đức “cứu thế độ nhân” của hai nữ danh y hiếm hoi trong lịch sử y học cổ truyền.
Theo phunutoday
Đại Hải