Trong tôn giáo Ấn Độ (đạo Hindu), hạt vừng là biểu tượng cho sự bất tử. Hạt vừng đem lại nhiều giá trị dinh dưỡng, dầu vừng hay dầu mè còn được coi là một vị thuốc bổ, chữa được nhiều thứ bệnh.
Đông y coi dầu vừng và vừng là một vị thuốc bổ, nhuận tràng, lợi sữa. Trong nhiều sách cổ đông y có viết: vừng có vị ngọt, tính bình, không độc, vào 4 kinh phế, tỳ, can và thận, có tác dụng ích gan, bổ thận, nuôi huyết, nhuận táo, là thuốc tư dưỡng cường tráng, bổ ngũ tạng, ích khí lực, đầy tủy não, sáng tai mắt, quên đói sống lâu (1). Ngoài ra, vừng đen còn có tác dụng làm đen râu tóc, chữa các chứng suy nhược, tóc bạc sớm, hoa mắt, chóng mặt, lưng đau gối mỏi..
Hạt vừng có kích thước rất nhỏ, hình bầu dục, màu sắc vỏ hạt khác nhau: màu trắng kem, màu vàng, tím, đen, đỏ. Hiện nay, 3 nước có sản lượng vừng lớn nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico. Đa số vừng được thu hạt để ép lấy dầu, một lượng nhỏ hạt dùng để bổ sung vào các món ăn đặc biệt là món bánh mỳ và một số món ăn nhẹ. Ở Việt Nam thường chỉ có 2 loại vừng trắng (hạt có màu trắng kem) và vừng đen.
Hạt vừng không chỉ là nguồn cung cấp các chất béo không bão hòa đơn, không bão hòa đa và các chất chống oxy hóa mà còn là nguồn cung cấp dồi dào nhiều loại chất khoáng như: Canxi, đồng, mangan, magie, photpho, sắt, kẽm, vitamin và cả chất xơ có tác dụng phòng và ngăn chặn nhiều bệnh.
Phòng chống các bệnh tim mạch và hô hấp
Dầu vừng là loại dầu có chứa nhiều nhất các chất béo không bão hòa, các chất chống oxy hóa trong số các loại dầu ăn nên đặc biệt tốt cho tim mạch. Không chỉ có vậy, hạt vừng còn có chứa 2 loại chất xơ đặc biệt là sesamin và sesamolin thuộc nhóm lignan. Hai chất xơ này đã được chứng minh là có tác dụng làm giảm cholesterol ở người, ngăn ngừa huyết áp cao và kích thích giảm cân.
Trong hạt vừng còn có chứa phytosterol một loại hợp chất có cấu trúc hóa học tương tự cholesterol, nên có khả năng làm giảm cholesterol trong máu. Hợp chất này còn giúp tăng cường miễn dịch và giảm nguy cơ một số loại ung thư. Theo kết quả nghiên cứu công bố trên Tạp chí Nông Nghiệp và Hóa thực phẩm hạt vừng là loại thực phẩm có chứa hàm lượng phytoterol cao nhất: 400 – 413 mg/100 g.
Hàm lượng magie cao trong hạt vừng cũng giúp làm giảm và ổn định huyết áp, ngăn chặn những cơn đau tim, đột quỵ. Chỉ với ¼ chén vừng (36g hạt vừng) cung cấp tới 31,6 % nhu cầu magie hằng ngày. Ngoài ra, magie cũng được chứng minh là có tác dụng giãn cơ vì vậy sử dụng hạt vừng giúp ngăn ngừa sự co thắt đường hô hấp trong bệnh hen suyễn, ngăn ngừa những cơn đau nửa đầu, làm giảm và ngăn ngừa hội chứng tiền kinh nguyệt.
Phòng ngừa ung thư
Là loại hạt có chứa nhiều chất chống oxy hóa, đồng thời, hạt vừng còn nâng cao khả năng bảo vệ và hấp thu vitamin E. Theo kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Dinh dưỡng và Ung thư, năm 2001 cho thấy, những người ăn bánh nướng xốp có rắc 5mg vừng mỗi ngày có thể làm tăng nồng độ vitamin E trong cơ thể chỉ sau 3 ngày. Vitamin E là chất chống oxy hóa mạnh, giúp tăng cường hệ thống miễn dịch, phòng chống một số loại ung thư. Ngoài ra, trong hạt vừng còn chứa một lượng lớn chất khoáng canxi (trong ¼ chén vừng cung cấp tới 35,1% nhu cầu canxi hằng ngày) – một loại chất khoáng được chứng minh là hiệu quả trong việc bảo vệ tế bào ruột kết khỏi các hóa chất gây ung thư.
Giúp xương chắc khỏe và điều trị viêm khớp dạng thấp
Ngoài cung cấp canxi khoáng chất chính trong quá trình tạo xương, vừng còn cung cấp 20% nhu cầu kẽm hàng ngày giúp xương luôn chắc khỏe. Theo nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng Mỹ cho thấy, chế độ ăn ít kẽm làm cho nồng độ chất khoáng trong máu thấp dẫn đến hiện tượng loãng xương hông và xương cột sống ở đàn ông lớn tuổi.
Vì vậy, ăn vừng giúp giảm hiện tượng loãng xương do mất xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và cả đàn ông lớn tuổi.
Với ¼ chén vừng (36 g) có thể cung cấp tới 70% nhu cầu khoáng chất đồng hàng ngày. Đồng được biết đến với tác dụng làm giảm cơn đau và sưng trong điều trị viêm khớp dạng thấp. Đó là do đồng là một yếu tố rất quan trọng trong hệ thống enzym chống viêm và chống oxy hóa. Ngoài ra, đồng cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của lysyl oxidase. Lysyl oxidase là một enzym cần thiết cho liên kết chéo giữa collagen và elastin – đây là những chất hình thành, tăng cường sức mạnh và sự đàn hồi thành mạch máu, xương và khớp.
Ngoài các tác dụng nếu trên, vừng còn cung cấp các vitamin nhóm B: B1, B2, B3, B6, B9 là những vitamin cần thiết sự hình thành và hoạt động của hồng cầu, hoạt động của hệ thần kinh, hỗ trợ cơ thể chuyển hóa năng lượng từ thức ăn.
Bạn có thể sử dụng hạt vừng với nhiều hình thức chế biến khác nhau: vừng rang chín giã với muối và lạc rang ăn kèm với cơm, cơm nắm hoặc hạt vừng được bổ sung vào các món bánh nướng, rắc trên bánh mì, bánh rán, chè kho, các món tráng miệng khác làm tăng hương vị của món ăn đồng thời rất tốt cho sức khỏe. Ăn cơm muối vừng vừa no lâu, dễ tiêu mà lại đầy đủ dưỡng chất. Ở phương Tây, các loại bánh truyền thống có bổ sung thêm vừng được bán với giá cao hơn hẳn loại thông thường.
Xuân Hiền
Tài liệu tham khảo:
(1). Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. 2006. NXB Hồng Đức.