Phần trước bài viết đã giới thiệu cho độc giả về sự tuần hành và chức năng sinh lý của hai mạch Nhâm, Đốc. Phần tiếp theo đây là một số kiến thức về 6 mạch còn lại trong kỳ kinh bát mạch.
Sự tuần hành và chức năng sinh lý của kỳ kinh bát mạch (tiếp theo)
3. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Xung mạch
* Đường đi
Xung mạch còn gọi là huyết hải, kiểm soát khí và huyết toàn cơ thể đưa đến 12 kinh chính, bắt đầu từ bộ phận sinh dục chia làm ba nhánh, một chạy lên đầu, một chạy theo xương sống, một nhánh xuống tới bàn chân.
* Chức năng sinh lý
– Điều tiết khí huyết của 12 kinh: Đường đi của Xung mạch trên hướng lên đầu, dưới tới bàn chân, xuyên khắp cơ thể, là nơi xung yếu tổng lĩnh khí huyết của các kinh lạc. Khi khí huyết trong tạng phủ và kinh lạc dư thừa, Xung mạch có thể kiềm chế và dự trữ; khi khí huyết trong kinh lạc tạng phủ không đủ, có thể bơm và bổ sung, để duy trì chức năng hoạt động sinh lý bình thường cho các cơ quan.
– Chủ về chức năng sinh sản: Xung mạch bắt nguồn từ dạ con, còn được gọi là ‘huyết hải, huyết thất” có tác dụng điều tiết kinh nguyệt. Xung mạch có quan hệ mật thiết với chức năng sinh sản. Mạch Xung là bể của 12 kinh mạch, quản lý khí huyết của các cơ quan nội tạng (Nội kinh viết: “Xung vi huyết hải”). Mạch Xung cùng với mạch Nhâm điều hành quá trình duy trì, phát triển thai, sản của phụ nữ. Những biểu hiện bệnh lý của mạch Xung gồm kinh nguyệt không đều, khí hư, đái dầm, không sinh đẻ được, thoát vị, khí từ bụng dưới thông lên ngực làm đau vùng tim, tiểu tiện bí. Có liên quan nhiều đến các bệnh vùng bụng, ngực đau cấp, suyễn. Nam giới bẩm sinh Xung mạch không hoàn chỉnh hoặc sau này bị thương tổn, đều có thể dẫn tới suy giảm chức năng sinh sản.
– Điều tiết khí cơ lên xuống: Xung mạch chủ yếu có chức năng điều chỉnh khí cơ lên xuống chủ yếu của tạng Can, Thận, Vị.
4. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Đới mạch
* Đường đi
Ở dưới bờ sườn cụt 1,8 tấc (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành). Đới mạch xuất phát từ huyệt Đới mạch (kinh Đởm), chạy chếch xuống vùng thắt lưng và chạy nối vùng quanh bụng. Mạch đi vòng quanh thân, ngang đoạn ở bụng (giống như dây đai – đới).
* Chức năng sinh lý
Ràng buộc các đường kinh lạc ngang dọc. Thông thường khi mạch Đới bị rối loạn sẽ xuất hiện chứng trạng: Bụng đầy chướng, kinh nguyệt không đều. Cảm giác như “ngồi trong nước” (tê từ thắt lưng xuống hai chi dưới); yếu, liệt 2 chi dưới.
5. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Âm kiều mạch
* Đường đi
Bắt đầu từ vùng sau xương thuyền phía trước mắt cá chân trong, qua huyệt Chiếu hải lên phần cao nhất mắt cá chân trong, chạy dài theo mặt trong đùi và háng, nhập vào bộ sinh dục ngoài, vào bụng, chạy dài theo mặt trong ngực vào bên trong hố xương đòn. Khuyết Bồn, đến sụn giáp lên mặt, vào xương gò má, đến khóe trong mắt và giao với Kinh Thủ Thái dương Tiểu Trường, Túc Dương minh Vị và mạch Dương Kiều.
* Chức năng sinh lý
Kiểm soát sự khép mở của mắt và sự vận động của cơ bắp.
6. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Dương kiều mạch
* Đường đi
Là mạch nhận khí của Thận. Đem khí của Thận từ dưới lên trên. Bắt đầu ở mặt ngoài gót chân, chạy dài theo mặt ngoài chân, hợp với kinh chính Đởm ở huyệt Dương Phụ, lên mặt ngoài mông ở huyệt Cự Liêu, chạy dài theo sườn tới vai, hợp với Túc và Thủ Thái dương (Bàng Quang + Tiểu Trường) và mạch Dương duy ở huyệt Nhu du, qua kinh chính Đại Trường ở huyệt Kiên ngung và Cự cốt, lên mặt, hợp với Túc và Thủ Dương Minh (Vị + Đại Trường) ở huyệt Địa thương và Cự liêu. Qua kinh Vị và mạch Nhâm ở huyệt Thừa khấp, đến góc trong mắt ở huyệt Tình minh hợp với mạch Âm kiều, lên trán và kết thúc ở sau xương chũm tai.
* Chức năng sinh lý
Kiểm soát sự khép mở của mắt và sự vận động của cơ bắp.
7. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Âm duy mạch
* Đường đi
Khởi lên từ chỗ giao nhau của các kinh Âm, mặt trong cẳng chân huyệt Trúc tân, chạy dài lên theo vùng đùi lên đến bụng, hội với kinh Túc Thái âm Tỳ ở huyệt Đại hoành, Phúc ai, Phủ xá và hội với kinh Can ở huyệt Kỳ môn, chạy lên ngực đến cổ, hội với mạch Nhâm ở huyệt Thiên đột và Liêm tuyền.
* Chức năng sinh lý
Mạch Âm duy có quan hệ với: Kinh chính của Thận: mạch Âm duy khởi phát từ huyệt Trúc tân của kinh Thận. Kinh chính Tỳ (qua các huyệt Phủ xá, Đại hoành, Phúc ai), Can kinh (qua huyệt Kỳ môn) và mạch Nhâm (qua huyệt Liêm tuyền, Thiên đột). Vì những mối quan hệ trên mà mạch Âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
8. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Dương duy mạch
* Đường đi
Mạch Dương duy bắt đầu từ huyệt Kim môn (kinh Bàng quang), chạy theo mặt ngoài cẳng chân đến huyệt Dương giao (kinh Đởm), chạy tiếp lên vùng mông đến huyệt Cự liêu (kinh Đởm), chạy theo mặt ngoài thân lên vai đến huyệt Nhu du (kinh Tiểu trường), chạy đến huyệt Kiên liêu (kinh Tam tiêu) rồi đến Kiên tỉnh (kinh Đởm, cũng là giao hội với kinh Túc Dương minh Vị), chạy tiếp đến Á môn, Phong phủ (mạch Đốc), sau đó vòng từ phía sau đầu ra trước để đến tận cùng ở Dương bạch sau khi đã đến các huyệt Chính doanh, Bản Thần, Lâm khấp (kinh Đởm).
* Chức năng sinh lý
Mạch Dương duy nối với toàn bộ các kinh dương của cơ thể (Thái dương, Dương minh và mạch Đốc).
Nói tóm lại, Kỳ kinh bát mạch cố nhiên đều có tác dụng tách rời ra được. Trong đó, hai mạch Nhâm, Đốc đi ở chính giữa (phía sau và phía trước thân thể), vận hành khí huyết, nối lại thành một đường vòng, đều có chuyên huyệt, chứ không như sáu mạch còn lại đều phải phụ thuộc vào hàng ngũ huyệt của 12 kinh mạch chính. Cho nên người xưa đem 2 mạch Nhâm, Đốc xếp vào với 12 kinh chính, gọi chung là 14 kinh chính.
Kiên Định
Nguồn tham khảo: phuctamduong, kknews