Từ ngày 1/1/2020, Luật phòng chống tác hại rượu bia có hiệu lực, người điều khiển bất kể phương tiện giao thông đường bộ nào như ôtô, máy kéo, xe máy, xe máy điện, xe đạp, xích lô… đều không được phép uống rượu bia khi lưu thông. Vậy, sau khi uống rượu, bia bao lâu thì bạn có thể lái xe?
Theo Nghị định số 100/2019 áp dụng từ ngày 1/1, khi lái xe có nồng độ cồn trong máu, hơi thở sẽ bị xử phạt sẽ rất nặng. Mức phạt thấp nhất là 200.000 đồng.
Với nồng độ cồn từ 0-0,24 mg/lít khí thở, người điều khiển xe sẽ bắt đầu bị phạt tiền và giữ giấy phép lái xe. Mức xử phạt cao nhất (khi nồng độ cồn trên 0,4 mg/lít khí thở) đối với người điều khiển xe ô tô từ 30-40 triệu đồng, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 22-24 tháng; đối với người điều khiển xe mô tô từ 6-8 triệu đồng, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 22-24 tháng; người điều khiển xe đạp, xe thô sơ từ 400.000-600.000 đồng.
Trước quy định mới, nhiều người thắc mắc sau khi uống rượu bao lâu thì không còn nồng độ cồn trong máu, người uống có thể tiếp tục tham gia giao thông mà không bị phạt.
Chia sẻ với báo Người Lao Động, ThS. Bác sĩ Nguyễn Trung Nguyên – Phụ trách Trung tâm Chống độc (Bệnh viện Bạch Mai) khuyên mọi người xác định tâm thế “đã uống rượu bia thì không lái xe” vì sự an toàn của bản thân và người khác.
Còn về việc “sau khi uống rượu bia bao lâu thì nồng độ cồn không còn trong máu?”, bác sĩ Nguyên cho rằng đây là câu hỏi rất khó trả lời chính xác. Vì thời gian từ lúc uống rượu đến khi kiểm tra để ra được xét nghiệm âm tính thì phụ thuộc rất nhiều yếu tố loại rượu mình uống, sức khỏe của từng người, nồng độ rượu mình uống, uống càng nhiều thì nồng độ càng cao.
“Hấp thu nhanh nhất là rượu 20 độ. Với những trường hợp khác như uống lúc đói thì hấp thu rượu càng nhanh, khi có thức ăn thì hấp thu chậm hơn. Cơ thể người mà cứ uống kéo dài, uống triền miên thì rượu tồn tại trong người sẽ lâu hơn.
Chúng ta phải cẩn thận, vì có những người uống rượu tối hôm trước mà tối hôm sau vẫn còn dương tính trong máu và hơi thở. Cách tốt nhất là hạn chế tối đa số lần uống rượu, hạn chế tối đa lượng rượu chúng ta uống”- bác sĩ Nguyên nhấn mạnh.
Theo báo VnExpress, bác sĩ Trần Văn Phúc, Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội, cho biết để định lượng chính xác nồng độ cồn trong máu, bạn phải thực hiện ở các cơ sở xét nghiệm như trong bệnh viện, bằng cách lấy máu tĩnh mạch, rồi định lượng Ethanol theo phương pháp sắc ký, hoặc phương pháp đo quang phổ Enzyme phân hủy rượu Alcohol Dehydrogenase.
Tuy nhiên, một người khi uống rượu có thể ước lượng một cách tương đối nồng độ cồn trong máu để tự điều chỉnh lượng rượu uống.
“Cách tính này được nhà khoa học người Thụy Điển Eric P. Widmark đề xuất từ năm 1932 nhưng chỉ có tính chất tham khảo, công thức không cho ra con số chính xác nồng độ cồn trong máu”, bác sĩ Phúc chia sẻ.
Công thức: A = W(C.10:1,056)r. Trong đó: A là khối lượng rượu nguyên chất đã uống (g), C là nồng độ cồn trong máu (g/100ml), W là trọng lượng cơ thể (kg), r là hằng số hấp thụ rượu theo giới tính (0,7 đối với nam giới và 0,6 với nữ giới).
Trung bình, mỗi giờ cơ thể loại bỏ 15 miligam cồn trong 100 ml máu, tuy nhiên, tuổi tác, cân nặng, các loại thuốc đang sử dụng, bệnh lý về gan… khiến thời gian chuyển hóa rượu ở mỗi người khác nhau. Đồ uống càng nhiều độ cồn thì thời gian để cơ thể chuyển hóa càng lâu hơn.
Do đó, để biết tốc độ suy giảm nồng độ cồn trong máu, người uống có thể áp dụng công thức Ci = C – 0,015t. Trong đó, C là nồng độ cồn trong máu khi uống xong, Ci là nồng độ cồn trong máu tại thời điểm xác định, t là thời gian.
Ví dụ, một người đàn ông nặng 65 kg, uống 200 ml rượu trắng 42 độ cồn, uống xong lúc đồng hồ chỉ 10h đêm, sau đó đi ngủ. 7h sáng hôm sau thức dậy, nồng độ cồn trong máu tính theo công thức trên sẽ còn 15 miligam trong 100 ml máu. Để hết nồng độ cồn trong máu, tức Ci = 0, phải sau 8h sáng máu mới hết cồn.