Phần 1 chúng ta đã biết Đông y thăm khám và trị bệnh là tổng quát, toàn phương diện chứ không chỉ trị một chứng, một bệnh. Tinh túy của Đông y là xem mạch biết trước bệnh tật để phòng theo quan điểm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Trong phần 2 này chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về cách dùng thuốc để hiểu cái gốc điều trị bệnh trong Đông y.

Phần 1: Bàn về cái nhìn tổng trạng của Đông y đối với cơ thể

Phần 2: Lề lối dùng thuốc, đường hướng trị bệnh của Đông y

Phong thái bào chế, phối hợp thuốc men của Đông y cũng là phong thái “vô nhi vô vi”: Trị bệnh mà như không trị bệnh vậy. Khi đau bệnh sắc thuốc uống cũng chỉ như lúc khỏe pha trà nhấm nháp. Xương thú có thể hầm để nấu cháo thì cũng có thể cô để chế cao. Thành ra ngày thường ta dùng thực vật, động vật trong ăn uống, thì lúc ốm đau, ta cũng dùng thực vật, động vật làm dược liệu.

Cho nên Đông y rất thiện dụng lối dùng toàn bộ vị thuốc mà rất xem nhẹ các phép trích khai (chiết xuất thảo dược trong Tây y) bởi hai lý do: Thứ nhất, vì hợp lẽ tự nhiên, đúng quy tắc “vi nhi vô vi; thứ hai, vì thích nghi với nhãn quan tổng hợp, toàn diện, bởi “Nhất vật bất cụ, tắc sinh giả vô do đắc sinh” (một vật không đầy đủ thì sự sống của nó không có lý do để sống) như Quách Tượng đã xác định.

Tim lợn thường được dùng trong Đông y để trị các bệnh về tim mạch. (Ảnh: emvaobep.com)

Hơn nữa, về nguyên tắc, phép dùng thuốc của Đông y là thông qua quy luật đồng khí tương cầu, bởi trong vũ trụ, vạn vật vốn đồng nhất thể. Vì vậy, từ đời Đường, cuốn “Thiên Kim Phương” đã khuyên dùng gan loài vật để chữa chứng bần huyết, dùng tuyến giáp loài dê để chữa chứng bướu cổ, dùng tim và thận lợn để trị các bệnh về tim và thận. Những ví dụ tương tự không thiếu trong kho tàng dược liệu cổ truyền: Trứng gà tươi và lộn, thận bò và dê, nhau sản phụ, não bộ và tủy sống súc vật…

Trên một khía cạnh khác, tính cách tương ứng giữa mọi vật áp dụng vào dược lý cũng thể hiện qua hình thức phân loại dược vật tùy theo thành phần, bộ phận nặng nhẹ: Phần nhiều hoa lá vốn nhẹ đều có tác dụng thăng phù (đi lên) như Tân di, Hà diệp, Thăng ma; phần nhiều quả hột, rễ củ, vốn nặng, đều có công năng trầm giáng, đi xuống như Tô tử, Chỉ thực, Thục địa…

Do nơi quan niệm phép trị lớn (đại chế) thì không trị bằng cách chia lìa một cách rời rạc vì các chức năng và bộ phận là liên quan chặt chẽ, là nhất thể, không phân biệt thân một nơi, tâm một ngã. Vì vậy phải làm cho tâm thể bệnh hoạn trở về với Thiên chân – thân tâm làm một, tức là với cái lẽ sống Một, điều lý sao cho quân bình, đi đến cái thế “đắc nhất” (Đạo Đức Kinh, Chương 39), không tách riêng tâm khỏi vật. Cho nên phương pháp trị liệu của Đông y, nhìn chung là dựa vào chiến lược “Đại chế đứt cáp” (Đạo Đức Kinh): Phép trị lớn, không chia.

Trong một thang thuốc cũng vậy, có vị bổ thì phải kèm vị tả, cạnh thuốc bốc lên quá phải kèm thuốc hạ xuống phần nào. Do đó, lối dùng thuốc của Đông y thường rất mực từ tốn, khoan thai – cả trong lúc cấp cứu, ít khi dùng các loại thuốc công tả mãnh liệt. Bởi giống như kẻ sĩ bậc cao không bạo động vũ phu “Thiện vi chỉ giả bất vũ (Đạo Đức Kinh, Chương 63).

Bậc lương y cũng không bao giờ sử dụng những phương pháp gây hấn, mạnh bạo để đối phó với ốm đau, mà chỉ huy động những liệu pháp nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Ai uống thuốc bắc cũng thấy rõ điều này: Thuốc bắc ít công phạt, thuốc bắc “không nóng”, cũng rất lành tính. Nhưng tác dụng không hề vì thế mà giảm thiểu; trái lại, khả năng duy trì lâu dài trong một thời gian là một đặc tính của dược liệu cổ truyền Đông phương.

Bởi giống như bậc danh tướng Gia Cát Lượng, không dùng sức mạnh để thắng đối phương, mà chỉ tìm cách thắng một cách khéo léo dựa vào thuật “bất tranh nhi thiện thắng” (không dành mà khéo thắng). Mà Đông y không phải là không biết đến các vị thuốc có tính năng mãnh liệt, hùng hậu, nguy hiểm, độc hại. Trái lại, phụ tử – vị thuốc thuộc bảng A của Tây y, là một trong bốn vị thuốc quý của phương Đông (Sâm, Nhung, Quế, Phụ).

Phụ tử, vị thuốc độc bảng A trong Tây y nhưng là vị thuốc trong tứ quý của Đông y – Sâm, nhung, quế, phụ. (Ảnh: duoctuelinh.vn)

Về chiến thuật, người thầy thuốc vận dụng dược liệu, kim châm cũng không ngoài lẽ Đạo. Cho nên nếu: “Thiên chi Đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc” (Đạo của Trời bớt chỗ thừa để bù chỗ thiếu – Lão Tử) thì:

  • Người y sĩ châm kim vào huyệt là để rút bớt khí thừa vượng ở một cơ quan, địa khu, kinh lạc nào đấy hầu hướng đến một cơ quan, địa khu, kinh lạc khác đang thiếu khí…
  • Người y sĩ phục dược là nhắm mượn sức thuốc, chẳng hạn tính thuốc dẫn hỏa quy nguyên, khi “nguyên” đang thiếu hỏa, bởi hỏa đã phân tán ra ngoại vi gần hết…
  • Trong cả hai trường hợp, dùng thuốc hay dùng kim, bậc lương y đều có thể tùy theo từng cơ quan có chức năng tăng hoạt hay suy nhược để mà linh động bổ mẫu, tả mẫu hay bổ tử, tả tử, châm bổ, châm tả theo nguyên lý ngũ hành sinh khắc, không ngoài mục đích mang chỗ thừa đắp vào chỗ thiếu.

Nếu theo lẽ Đạo, “táo thắng hàn, tịnh thắng nhiệt” (Lão Tử), thì chiến thuật dùng thuốc cũng chỉ là lợi dụng sự thiên lệch của tính thuốc, vị thuốc để sửa chữa sự thiên lệch của âm dương, lấy các vị thuốc ôn nhiệt (ấm, nóng) chẳng hạn để chế ngự các chứng trạng hàn lương (lạnh, mát), hoặc trái lại, cầu viện đến những dược phẩm cam hàn như Mạch môn, Dương sâm, Sa sâm để sinh tân dịch trong những chứng ôn tà với sốt cao, khát nước, tân dịch ở vị bị tổn thương…

Mạch môn sinh tân chỉ khát trị các chứng bệnh sốt cao, mất tân dịch. (Ảnh: thienanduockinhbac.vn)

Kết quả là trong một thang thuốc, yếu điểm chỉ đạo chính là sự quân bình phải đạt được, sự điều hòa bắt buộc phải có giữa những dược liệu cấu thành thang phương, chứ không phải vấn đề nhiều hay ít. Tuy rằng trong thực tế, tất cả nghệ thuật dùng thuốc, bốc thuốc là biết dừng lại đúng lúc, biết đến đâu là đủ, mà Lão Tử vẫn hằng khuyên nhủ qua những lối nói “tri chỉ, tri túc” (biết dừng, biết đủ), và người y sĩ mà không biết dừng lại thì thật là đại họa: “Họa mạc đại ư bất tri túc” là một cách ngôn vàng ngọc của nghề Y.

Vì vậy, không một nền y khoa nào có được một mô thức phối hợp dược vật độc đáo như Đông y. với Đông y, trong một thang thuốc, mỗi vị thuốc là một vai trò linh hoạt, một chức vụ minh bạch. Có vị thuốc đóng vai vua, có vị thuốc giữ chức quan, có vị thuốc làm phụ tá, có vị thuốc giữ phần sứ giả (Quân, Thần, Tá, Sứ).

Mà không phải chỉ có vai vua mới quan trọng, bởi mỗi vật đều có “tính” riêng của nó. Vua mà không bề tôi, không sứ thần, không phụ chính thì vua với ai? Ví như bài Bình phong tán của Đông y chẳng hạn, nếu không có vị Hoàng kỳ cố biểu, vị Bạch truật bổ trung, vị Phòng phong khiếp phong tà, thiếu đi bất cứ một vị nào trong ba vị ấy thì bài thuốc thực sự chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Thuốc Đông y thường được phối hợp theo Quân, Thần, Tá, Sứ. (Ảnh: nhathuoclongchau.com)

Cũng vì tính điều hòa giữa các vị thuốc trong một phương tể được xem là cực kỳ quan trọng, cho nên có nhiều dược liệu rất được Đông y ân sủng, do nơi tính năng hòa hoãn của chúng. Vị Cam thảo chẳng hạn, mà Đông y mô tả là có tác dụng khiến vị thuốc nóng bớt nóng, vị thuốc lạnh bớt lạnh, vị thuốc độc bớt độc và gọi tên là Quốc lão – hình tượng một vị lão quan nơi triều đình chuyên giàn hòa những va chạm, xích mích giữa các bạn đồng liêu.

Vị cam thảo ấy luôn luôn chiếm một chỗ ngồi danh dự trong các thang phương: Nếu tổng số phương thang của hai cuốn Thương hàn tạp bệnh luậnKim quỹ yếu lược của Trương Trọng Cảnh lối 250 bài, thì Cam thảo đã hiện diện trong không dưới 120 bài.

Mục tiêu tối hậu của pháp trị liệu bệnh tật cũng chỉ là giúp bệnh nhân trở lại tình trạng bình thường, như theo Trang Tử: Phận sự duy nhất của mỗi vật là trở về với cái chân thể –  tức là  Đạo, nghĩa là trở về với cái “tính” của mình, để sống theo “tính”. Ấy tức là “phản kỳ chân” hay “phục kỳ bản” (quay với cái chân ngã, cái ban đầu).

Cam thảo, vị thuốc được mệnh danh là Quốc lão trong Đông y. (Ảnh: 123rf.com)

Đông y cũng không hề nói khác. Cứu cánh của bất kỳ liệu pháp nào bao giờ cũng là “trị bệnh tật cầu kỳ bản” – phải chữa bệnh tận gốc, để giúp con người trở lại nguyên trạng bình thường, “… dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên” (Đạo Đức Kinh, chương 64), giúp vạn vật sống theo tự nhiên, bởi yếu chỉ của nghiệp y không ngoài nguyên tắc “Đạo pháp tự nhiên” (Đạo bắt chước tự nhiên).

Chính vì rất suy tôn phong thái tự nhiên trong điều trị cho nên Đông phương luôn coi trọng chính khí tức là khả năng tự vệ, tài sức đề kháng của châu thân, mà có phần xem thường tà khí nghĩa là các nhân tố gây bệnh thuộc về ngoại giới. Đối với Đông y, mục tiêu phải đạt được khi chữa trị bệnh tật là tái lập quân bình cơ thể đã đổ vỡ vì ốm đau, và khi tình trạng chính thường được phục hồi thì nguyên nhân gây bệnh sẽ không thể nào hoành hành được nữa.

Trong khi Tây y chủ trương mở những cuộc hành quân – nhiều khi thực rầm rộ để đánh bại cho kỳ được vi trùng tại cứ địa của chúng, cũng đồng thời đánh mất lực lượng đề kháng của bản thân, thì Đông y quan niệm cần đặt thực nặng vấn đề nâng  đỡ tng trạng để giúp chính cơ thể tự lực diệt được vi trùng hoặc tự lực tái tạo các điều kiện bình thường – vốn là điều kiện không cho các mầm bệnh tồn tại.

Vì thế, tuy không hề – mà thực ra thì cũng không cần biết đến vi trùng, Đông y vẫn có khả năng chữa trị được các bệnh nhiễm, tức là các bệnh do vi trùng gây nên. Vì thế, các phép bổ dưỡng của Đông y sau những trận ốm đau liệt giường liệt chiếu thường mang đến những thành quả rực rỡ, bởi đây chính là một trong nhiều biệt tài của y lý cổ truyền. Đối với Đông y thực đúng là “Việc nhân nghĩa cốt ở ăn dân” trong khi Tây y chủ trương “Quân điếu phạt trước lo khử bạo”.

Mời quý độc giả đón xem phần 3, phần này chúng tôi sẽ trình bày nguyên nhân tại sao ngày nay bệnh lại nhiều và khó trị như vậy dưới cái nhìn của Đông y.

(Còn tiếp)

Cao Sơn