Nghe tiêu đề bài viết rất thân quen, nhưng hóa ra có những chi tiết nhỏ về phép lịch sự và ý tứ mà nhiều người trẻ trong chúng ta không biết hết. Đây cũng là những quy tắc đạo đức hay “luật bất thành văn” vẫn luôn tồn tại hằng ngày trong mỗi bữa ăn.
Người Việt Nam từ xưa đến nay luôn có những quy tắc nhất định trong bữa ăn, từ cách dọn mâm, so đũa, xới cơm, mời cơm đến cách gắp thức ăn, cách dùng đũa… đều không thể tùy tiện.
Con trẻ trong nhà nên được dạy dỗ, hướng dẫn từ nhỏ về mọi quy tắc trong bữa ăn và những điều kiêng tránh để tạo thành thói quen…, từ đó hình thành văn hóa ứng xử đẹp đẽ và sự tôn trọng với những người xung quanh.
Vấn đề dùng đũa
Không có vật dụng nào tiện ích như đôi đũa, có thể gắp, và, xẻ, trộn, nghiền, nâng… Đũa ăn, đũa bếp, đũa cả là khác nhau. Không có quy chuẩn Việt cho đũa ăn, vị trí đẹp là giữa 1/3 – 2/5 đầu trên, tùy bàn tay to nhỏ, không thấp xuống nhưng cũng không cao quá, không rời rạc cũng không lỏng lẻo, đặc biệt không chỉa các ngón ra ngoài.
Khi dùng đũa nhớ nói “Không” với những điều sau đây:
– Không và quá 3 lần khi đưa bát cơm lên miệng.
– Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.
– Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.
– Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn.
– Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.
– Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm.
– Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.
– Không được cắn răng vào đũa, thìa, miệng bát, không liếm đầu đũa.
– Không vừa cầm bát vừa cầm đũa chỉ 1 tay cũng như không được ngậm đũa để rảnh tay làm các việc khác chẳng hạn như múc canh, đôi đũa chưa dùng đến phải đặt vào mâm hoặc đĩa lót bát (nếu có) hoặc đồ gác đũa.
Trẻ em có cỡ đũa nhỏ hơn cho vừa tay, cầm đũa khó hơn thìa, nĩa bởi phụ thuộc vào các cơ nhỏ ở ngón tay và khả năng phối hợp vận động của thần kinh, hơn 3 tuổi có thể dạy trẻ cầm đũa, nếu dạy sớm quá khó hình thành tư thế cầm đũa đẹp vì thần kinh phối hợp chưa thuần thục. Tập gắp từ dễ tới khó, biết gắp rồi chuyển sang tập và cơm, kết hợp cả hai tay, nâng bát cầm đũa đưa lên miệng và, rồi học trở đầu đũa cho thuần thục. Trẻ lớn thì chuyển cỡ đũa dài hơn, cấp 2 dùng cỡ đũa như người lớn. Cha mẹ có thể biến việc luyện kỹ năng cầm đũa thành trò chơi và tổ chức thi “tay nghề” vui cho trẻ em.
Dọn mâm cơm
Dọn mâm cơm là việc ngày nào cũng làm, vậy mà ẩn chứa nhiều điều đáng lưu ý mà có thể chúng ta còn chưa biết hết:
– Dọn mâm phải nhớ dọn âu nhỏ đựng xương, đầu tôm, hạt thóc hay sạn sót trong cơm…
– Muôi hay muỗng kiểu múc canh phải đặt úp trong bát không được để ngửa.
– Không để các vật dụng cá nhân lên bàn ăn, trừ chiếc quạt giấy xếp có thể đặt dọc cạnh mép bàn. Ngày nay thì di động là vật bất lịch sự và mất vệ sinh.
– Nhất thiết để phần người về muộn vào đĩa riêng, không khi nào để phần theo kiểu ăn dở còn lại trong đĩa.
– Trẻ em quá nhỏ dọn mâm riêng và có người trông chừng để tránh gây lộn xộn bữa ăn của người già, tới 6 tuổi là ngồi cùng mâm với cả nhà được sau khi đã thành thục các quy tắc cơ bản. Việc này rất quan trọng, bởi khi đứa trẻ chưa thuần thục các quy tắc văn minh sẽ phải nhắc nhở, không nhắc ngay thì chúng quên, mà nhắc ngay, nhắc lặp lại, nhắc trước mặt nhiều người thì chúng bị ức chế.
– Với người cao tuổi, dọn riêng đĩa cá thịt đã lóc xương, thái nhỏ, hay ninh mềm hơn.
– Trước đây, người Việt dùng chung bát nước chấm, khi chấm, chỉ nhúng phần thức ăn, không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm. Khi người Pháp sang bắt đầu truyền bá về vệ sinh và từ đó các gia đình mà có tiếp xúc văn hóa Pháp, các tu viện như dòng Mến Thánh Giá bắt đầu sẻ nước chấm thành bát riêng hoặc có thìa nhỏ để chan nước chấm.
– Nhà có khách cần cẩn trọng khi nấu, chất cay hay chất phụ trội thì nên bày riêng, tránh bất tiện cho khách khi họ không ăn được cay hay một vài gia vị đặc biệt.
Tư thế ngồi ăn
Tư thế ngồi ăn cũng phản ánh tướng mạo, tâm thế, càng nên được rèn giũa từ nhỏ để thành thói quen.
– Ngồi ăn dù trên chiếu hay trên ghế đều không được rung đùi, nam rung đùi là tướng bần tiện, trong khi nữ rung đùi là tướng dâm dục.
– Không ngồi quá sát mâm hay bàn ăn nhưng cũng không ngồi xa quá.
– Ngồi trên ghế thì phải giữ thẳng lưng. Ngồi trên chiếu thì chuyển động lưng và tay nhưng không được nhấc mông.
– Không để tay dưới bàn nhưng cũng không chống tay lên bàn mà bưng bát và cầm đũa, khi chưa bưng bát thì phần cổ tay đặt trên bàn nhẹ nhàng.
– Không ngồi chống cằm trên bàn ăn.
– Nếu bạn là khách thì ngồi đâu nên theo sự xếp chỗ của chủ nhà, không tự ý ngồi vào bàn ăn khi chủ nhà chưa mời ngồi.
– Khi trẻ em muốn ăn món mà nó ở xa tầm gắp, phải nói người lớn lấy hộ chứ không được nhoài người trên mâm.
Trong lúc ăn
– Phong tục mời tùy theo gia đình, Ki tô hữu cầu nguyện ngắn trước khi dùng bữa, gia đình Phật tử thuần thành tạ ơn trước khi ăn, có gia đình thì người cao tuổi nhất nói đơn giản “các con ăn đi”, trẻ thì thưa “con xin phép”, nhưng có gia đình trẻ con phải mời hết lượt ông bà cha mẹ cô chú anh chị…
– Không ăn trước người lớn tuổi, chờ bề trên bưng bát lên mình mới được ăn. Nếu đi làm khách không gắp đồ ăn trước chủ nhà hay người chủ sự bữa cơm trừ ra bạn được chủ sự đề nghị gắp trước, trong một dịp nhất định.
– Phải ăn nếm trước rồi mới thêm muối, tiêu, ớt, chanh v.v…, tránh vừa ngồi vào ăn đã rắc đủ thứ gia vị phụ trội vào phần của mình.
– Nên thành thực nói trước về việc ăn kiêng, dị ứng (nếu có) khi được mời làm khách để tránh bất tiện cho chủ nhà.
– Nếu thấy thức ăn lớn nên xin cắt nhỏ để mọi người được thuận tiện.
– Không chu mồm thổi thức ăn nóng mà múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát đĩa.
– Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói.
– Khi nhai tối kỵ chép miệng.
– Không tạo tiếng ồn khi ăn (ví dụ: húp soàm soạp).
– Không nói, không uống rượu, không húp canh khi miệng còn cơm.
– Không gõ đũa bát thìa.
– Không gắp liên tục 1 món dù đó là món mình thích.
– Ăn từ tốn, không ăn hối hả, không vừa đi vừa nhai.
– Khi ăn không được để thức ăn dính ra mép, ra tay hay vương vãi, đứng lên là khăn trải bàn vẫn sạch.
– Chỉ có người cao tuổi, 70 trở lên và trẻ nhỏ mà ợ khi ngồi ăn mới không bị coi là bất lịch sự.
– Nếu bị cay thì xin phép ra ngoài hắt xỳ hơi, xỷ mũi.
– Tránh va chạm tay với người cùng mâm, nếu thuận tay trái thì nói trước để chọn chỗ cho thuận tiện.
– Phải chú ý tay áo khi gắp đồ ăn.
– Không vừa ăn vừa uống
– Khi ăn món nước như canh, chè, xúp, cháo… nếu dọn bát nhỏ hay chén tiểu thì có thể bưng bát trên hai tay để uống nhưng không được kèm đũa thìa. Nếu dọn bát lớn hay đĩa sâu thì dùng thìa múc ăn, tới cạn thì có thể một tay hơi nghiêng bát đĩa sâu ra phía ngoài, một tay múc chứ không bưng tô to đĩa sâu lên húp như kiểu chén tiểu. Món canh có sợi rau nên dọn bát nhỏ, món gọn lòng thìa có thể dùng bát lớn, đĩa sâu.
– Ăn xong cần tô son lại thì xin phép vào phòng vệ sinh, không tô son trên bàn ăn trước mặt người khác.
– Khi đang ăn mà có việc riêng phải xin phép rồi mới rời mâm.
– Không được phép quá chén.
– Phải ăn hết thức ăn trong bát, không để sót hạt cơm nào.
– Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này cực kỳ quan trọng vì không đơn thuần là phép lịch sự mà còn là một phần giáo dục nhân cách. Nếu không được dạy nghiêm túc, trẻ em từ chỗ phản ứng tự nhiên do khẩu vị sẽ tới chỗ tự cho mình quyền chê bai, phán xét, không trân trọng lao động của người khác.
– Nhất thiết nói cảm ơn sau bữa ăn dù là chỉ có hai vợ chồng nấu cho nhau. Đừng tiếc lời khen ngợi những món ngon.
Tâm Giao (sưu tầm)
Video xem thêm: Bánh chưng ngày Tết: Món ăn bổ huyết ích khí, cải thiện tiêu hóa