Đại Kỷ Nguyên

Than trong nước tồn kho lớn, vì sao vẫn nhập khẩu?

Trong khi than trong nước đang thừa hàng triệu tấn, nhiều doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu số lượng lớn than từ nước ngoài về tiêu thụ tại thị trường Việt Nam.

Trang tin Dân trí dẫn báo cáo của Bộ Công Thương cho biết, tính đến hết năm 2017, Việt Nam nhập khẩu 14,5 triệu tấn than đá, tăng tăng 9,8% so với năm 2016. Trị giá nhập khẩu đạt khoảng 1,52 tỷ USD, tăng 58,4% so với năm trước.

Trong quý I/2018, Việt Nam nhập khẩu tiếp khoảng 3,68 triệu tấn than với giá trị khoảng 449,1 triệu USD.

Nhập khẩu than tiếp tục tăng trong khi khối lượng than tồn kho của Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc đến cuối năm 2017 vẫn còn khoảng trên 9,5 triệu tấn.

Đây có vẻ là một nghịch lý khi khối lượng than trong nước đang tồn khá lớn trong khi Việt Nam vẫn phải bỏ ra một nguồn ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu loại tài nguyên này.

Việt Nam chi 449,1 triệu USD nhập khẩu than trong quý I. (Ảnh minh họa)

Theo Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, do nhu cầu tiêu thụ than của nền kinh tế trong những năm tới tăng cao, sản lượng than sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nên khối lượng than nhập khẩu ngày càng tăng cao. Dự báo khối lượng than nhập khẩu vào năm 2020 khoảng 40 triệu tấn, năm 2025 khoảng 70 triệu tấn và đến năm 2030 vào khoảng trên 100 triệu tấn.

Nhiều dự báo thời gian qua cũng cho thấy than trong nước sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu cho nhiệt điện và các hộ tiêu dùng khác, cộng với việc khai thác than hiện đã rất khó khăn nên việc nhập khẩu than chắc chắn sẽ còn gia tăng trong thời gian tới. Và điều lo ngại lâu nay đã xảy – Việt Nam đang phải nhập chính những loại than mà trong nước từng có thế mạnh và xuất khẩu.

Giải trình vấn đề này, Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương) cho biết quan điểm phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020 là thực hiện kinh doanh than theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hài hóa với thị trường than thế giới.

Theo Bộ Công Thương, hiện giá than ngoài nước hiện tăng cao so với thời điểm quý IV/2017 khoảng 5-7% và cao hơn giá than sản xuất trong nước đối với từng chung loại. Theo đó, việc tiêu thụ than của TKV và Tổng công ty Đông Bắc trong quý I/2018 có nhiều thuận lợi, sản lượng than tiêu thụ tăng dẫn tới khối lượng than tồn kho giảm.

Tính đến hết quý I/2018, sản lượng than tồn kho của TKV và Tổng công ty Đông Bắc chỉ còn khoảng 8 triệu tấn.

Vụ Dầu khí và Than cho rằng sở dĩ khối lượng than nhập khẩu trong năm 2017 tăng so với năm 2016 là do giá than trên thị trường thế giới thấp hơn giá than sản xuất trong nước, nên các hộ tiêu thụ chuyển sang sử dụng than nhập khẩu. Cùng với đó, phần lớn than nhập khẩu là các chủng loại đáp ứng yêu cầu về công nghệ và nhu cầu sử dụng của các nhà máy mà trong nước hiện chưa sản xuất được.

Minh Tuệ tổng hợp

Exit mobile version