Được so sánh với “Thôi Bối Đồ”, Lưu Bá Ôn đã dự ngôn chính xác vận mệnh quốc gia Trung Quốc trong cả ngàn năm. Đài Loan sẽ đối mặt với một bước ngoặt? Bí quyết gì để được bình an? 

Chào mừng các bạn đến với Bí ẩn chưa được giải đáp!

Hôm nay chúng ta sẽ nói về Lưu Bá Ôn, một vị quân sư thần cơ diệu toán trong lịch sử. Lưu Bá Ôn không chỉ là nhà chiến lược khai quốc công thần của nhà Minh, mà còn là một vị văn võ toàn tài, có thể bấm đốt tay toán mệnh, thiên văn địa lý không gì không thông, được người đời sau ví như Gia Cát Khổng Minh tái thế. Tuy nhiên, điều được nhắc đến nhiều nhất về ông không phải là những chiến công hiển hách hay tài năng văn chương đáng kinh ngạc, mà là những dự ngôn được truyền lại cho hậu thế.

Tiên tri cứu Minh Thái Tổ

Trong số những dự ngôn cổ đại trứ danh được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, chỉ riêng Lưu Bá Ôn đã sở hữu ba cuốn là “Thiêu Bính Ca”, “Kim Lăng Tháp Bi Văn” và “Cứu Kiếp Bi Văn”. Mặc dù hiện tại không cách nào khảo chứng liệu những dự ngôn này rốt cuộc có phải do Lưu Bá Ôn viết năm đó hay không, trên mạng cũng có nhiều ý kiến ​​​​khác nhau, nhưng việc Lưu Bá Ôn có thể biết trước tương lai không phải là không có căn cứ. Có một sự kiện nổi tiếng được sử sách ghi lại. Khi đó, Lưu Bá Ôn không chỉ có năng lực tiên tri cứu mạng Chu Nguyên Chương, mà còn chỉ huy quân đội giành chiến thắng có tính then chốt.

Đó là lúc Lưu Bá Ôn theo Chu Nguyên Chương chinh phục giang sơn. Chu Nguyên Chương bắt đầu trận chiến với tử địch Trần Hữu Lượng tại hồ Bà Dương. Hai bên một ngày giao chiến mấy chục lần, giao tranh rất ác liệt. Chu Nguyên Chương tâm lý nóng vội, liền chỉ huy chiến hạm của mình đến trận tiền đốc chiến. Lúc đó ông đang ngồi trên giường, Lưu Bá Ôn đứng bên cạnh. Đột nhiên Lưu Bá Ôn nhảy dựng lên, hét lớn: “Chúa công xin hãy rút lui nhanh”, rồi kéo Chu Nguyên Chương lên một chiếc thuyền nhỏ bên cạnh.

Chu Nguyên Chương chưa kịp ngồi xuống thì một quả hỏa pháo đã bắn trúng con thuyền mà ông vừa rời khỏi, con thuyền nhanh chóng tan rã. Trần Hữu Lượng, người đang quan sát trận chiến từ trên cao, nhìn thấy thế thì vui mừng khôn xiết, tưởng rằng Chu Nguyên Chương chắc chắn đã chết, chiến thắng đã nắm trong tay. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là hạm đội của Chu Nguyên Chương lại hành động như không có chuyện gì xảy ra, tinh thần chiến đấu dâng cao, chỉ tiến không lùi. Kết quả là, binh lính của Trần Hữu Lượng sợ hãi. Lẽ nào chủ soái của đối phương có được thần linh che chở, thuyền đã tan, mà người vẫn an nhiên vô sự?!

Sau đó, toàn bộ cục diện trận chiến đã thay đổi. Ba ngày sau, Lưu Bá Ôn tính toán, chọn ra một ngày kim mộc tương khắc, đối với Trần Hữu Lượng là bất lợi, chỉ huy quân đội của mình triển khai trận chiến quyết định với ông ta ở cửa hồ Bà Dương. Trần Hữu Lượng quả nhiên đại bại, sau đó bỏ mạng trên đường trốn thoát.

Thắng lợi của trận chiến này và cái chết của Trần Hữu Lượng đã đặt định nền móng cho Chu Nguyên Chương bình định Giang Nam, đồng thời cũng mở đường cho nhà Minh thống nhất giang sơn sau này. Chu Nguyên Chương từ đó rất tin nghe Lưu Bá Ôn, thường gọi ông đến để thảo luận việc lớn. Lưu Bá Ôn cũng biết gì nói đó, tận tâm toàn lực phò tá vị chủ soái, khi hành quân và chiến đấu, mưu kế của ông đưa ra thường là quỷ thần khó đoán. Sau này, khi thiên hạ thái bình, Lưu Bá Ôn đã dạy Chu Nguyên Chương “đạo làm vua” để trở thành một hoàng đế. Chu Nguyên Chương rất cung kính ông, cung kính đến mức không gọi ông bằng tên trực tiếp, mà gọi ông là “Lão tiên sinh”.

Sử sách kể rằng, khi Chu Nguyên Chương triệu tập Lưu Bá Ôn, thường sai tả hữu lùi lại, hai người thì thầm riêng với nhau. Những lời thì thầm này có một số được dân gian lưu truyền, phần lớn là liên quan đến Âm Dương Ngũ Hành, chiêm bói tương lai, ai nghe cũng cảm thấy khá thần kỳ.

“Thiêu Bính Ca” – Duyên khởi

“Thiêu Bính Ca” là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất trong đó. Có một thuyết pháp trên mạng rằng “Thiêu Bính Ca” ban đầu được thu lục vào “Vĩnh Lạc Đại Điển” của nhà Minh, tên nguyên lai của nó gọi là “Đế sư vấn đáp ca”, bởi vì duyên khởi của nó là từ một cái bánh vừng, bánh vừng gọi là “thiêu bính”, do đó dân gian gọi là “Thiêu Bính Ca”. 

Câu chuyện kể rằng, lúc Chu Nguyên Chương mới lên ngôi, ông vẫn là một vị hoàng đế gốc gác bình dân, không quen ăn những món sơn hào hải vị, nên hôm đó đã làm bánh mè “thiêu bính” để ăn. Đáng tiếc là vừa cắn một miếng, thái giám ngoài cửa tới báo tin quốc sư Lưu Bá Ôn tới đây rồi. Chu Nguyên Chương đặt bánh mè xuống, thuận tay cho vào bát đậy lại.

Lưu Bá Ôn vừa tiến vào, Chu Nguyên Chương liền cười hỏi ông, nếu quốc sư có thể bấm ngón tay bói toán, ngài có biết trong bát này là cái gì không? Lưu Bá Ôn bấm ngón tay của mình hai cái, rồi nói: “Nửa như mặt trời, nửa như mặt trăng, từng bị kim long cắn một miếng”, đây là một thứ đồ ăn. Những thứ được cho vào bát phần lớn là đồ ăn, không khó để đoán ra điều này. Nhưng mấu chốt là Lưu Bá Ôn có thể tính ra được đó là một miếng thức ăn hình tròn, lại bị cắn một miếng, chuyện này không hề đơn giản.

Chu Nguyên Chương lúc này bắt đầu thấy hứng thú, nói: “Quốc sư, khanh tính toán giỏi quá, vậy tính toán giang sơn khí vận của nhà Minh của ta sẽ thế nào?”

Lưu Bá Ôn không dám trả lời minh xác. Ông chỉ mỉm cười nói: “Thiên số còn dài, chủ tôi vạn con vạn cháu, hà tất phải hỏi.” Câu nói này tưởng chừng như đang tâng bốc, kỳ thực nó đã trả lời cho câu hỏi của hoàng đế. Tại sao? Bởi vì nhà Minh đã chết dưới tay Sùng Trinh, cháu trai của hoàng đế Vạn Lịch. Đây chẳng phải là “Vạn con Vạn cháu” sao?

Đương nhiên, lúc đó Chu Nguyên Chương không thể hiểu được, Lưu Bá Ôn cũng không giải thích nhiều. Nhưng sau một lần đoán trúng như vậy, tâm hiếu kỳ của hoàng đế khởi lên, nói ta biết rằng từ cổ chí kim, sự hưng vong của thiên hạ đều là định số, chỉ có nhân tài hữu đức mới xứng đáng làm chủ thiên hạ. Quốc sư cứ nói xem, sẽ không giáng tội cho khanh.

Lưu Bá Ôn cũng không ngừng nhượng bộ, bắt đầu nói về tương lai. Hai bên vua tôi một hỏi một đáp, suy toán một mạch đến sự kiện hàng trăm năm sau. Đây chính là dự ngôn “Thiêu Bính Ca” được truyền lại.

Toàn văn “Thiêu Bính Ca” có gần 2.000 từ, bao gồm hơn 40 bài ca dao tổ thành. Đánh giá từ những phần đã được giải đọc, giống như những dự ngôn cổ đại khác mà chúng tôi đã từng giới thiệu trước đây, “Thiêu Bính Ca” cũng thập phần linh nghiệm. Trùng trùng những sự kiện lớn khác nhau kể từ thời nhà Minh, chẳng hạn như loạn chính của Ngụy Trung Hiền, cái chết của Sùng Trinh, sự trỗi dậy của nhà Mãn Thanh, hai lần Chiến tranh nha phiến, Cách mạng Tân Hợi 1911, v.v. đều đã được dự đoán trúng, có thể nói đó là chuẩn xác 100%.

Cái chết của Sùng Trinh

Ví dụ, hiện tại cuộc thảo luận về hoàng đế Sùng Trinh đang tương đối nóng. Chúng ta hãy xem trong dự ngôn nói gì.

Sùng Trinh lên ngôi hoàng đế từ anh trai Chu Do Hiệu. Chu Do Hiệu tại vị được 7 năm, nhưng vì sủng ái quan thái giám Ngụy Trung Hiền, không lâu sau đó, nhà Minh khí số đã cạn. Trong dự ngôn nói, đến khi đó sẽ có “Bát thiên nữ quỷ loạn triều cương”, “Trung lương sát hại băng như sơn”. “Bát thiên nữ quỷ” (八千女鬼) trong Thôi Bối Đồ và các dự ngôn khác cũng đề cập, rằng những chữ này kết hợp với nhau thì thành một chữ “Ngụy” (魏). Có thể nói điều này chắc chắn là chỉ Ngụy Trung Hiền tàn hại  những trung thần lương sĩ.  

Tiếp theo, dự ngôn nói: “Vạn tử vạn tôn tầng điệp tầng, tổ tông sơn thượng bối y hành.”  “Vạn tử Vạn tôn” chúng tôi đã giải thích ở trên, là chỉ con cháu của hoàng đế Vạn Lịch. Còn “tổ tông sơn thượng bối y hành” được hiểu là gì? Câu này tương đối ẩn ý. Chúng ta trước tiên hãy xem ba chữ “tông sơn thượng” (宗山上). Chữ tông (宗) trên đầu thêm một chữ sơn 山, chẳng phải là thành chữ Sùng (崇) trong tên của hoàng đế Sùng Trinh sao?

Và ba chữ “thượng” (上) , “bối” (貝) và “y” (衣) kết hợp với nhau là chữ gì? Chính là chữ “Trinh” (禎). Hợp lại với nhau thì thành tên “Sùng Trinh”. Thậm chí, có người còn giải đọc sâu rằng xưa kia có một uyển ngữ (cách nói giảm, nói tránh không đề cập trực diện), gọi hoàng đế chết rồi là “đại hành”. “Sơn thượng hành” (đi trên núi là ý nói sẽ chết trên núi, đối ứng là sự việc hoàng đế Sùng Trinh treo cổ trên núi. Việt ngữ cũng thường dùng uyển ngữ “đi” để tránh đề cập trực tiếp về về cái chết. 

Dự ngôn về Khang Hy

Lối đố chữ như vậy rất phổ biến trong “Thiêu Bính Ca”, và cũng vô cùng tinh chuẩn. Ví dụ, về hoàng đế Khang Hy, vị hoàng đế nổi tiếng nhất của nhà Thanh, trong dự ngôn nói như sau: “Thập bát niên gian Thủy Hỏa đoạt, dung nhân bất dụng thủy hỏa thần, quái phân khí số thiểu tam số.”

Trong một tập trước đây chúng tôi đã từng giới thiệu “Ngũ đức chung khởi thuyết” trong Âm Dương Ngũ Hành, nghĩa là mỗi triều đại đều có đức Ngũ Hành của riêng mình. Nhà Minh tự xưng mình thuộc về Hỏa đức, “Hỏa đức thượng xích”, “xích” (赤) là màu đỏ, cũng là chữ “chu” (朱), vì vậy Chu Nguyên Chương đã được chủ định để đắc được thiên hạ. Còn nhà Thanh thì sao? Nhà Thanh là Thủy đức, có thể thấy điều đó từ chữ “Thanh” (清) (chữ thanh có bộ thủy) trong quốc hiệu. Thủy diệt Hỏa, do vậy bạn thấy nhà Thanh đã diệt được nhà Minh. Ba chữ “Thủy Hỏa đoạt” trong câu đầu chẳng phải đã dự ngôn được điểm này sao?

Từ năm 1644, khi Sùng Trinh bị treo cổ, đến năm 1662, năm Khang Hy thứ nhất (Khang Hy lên ngôi năm 1661, đổi niên hiệu thành Khang Hy năm 1662), tổng cộng là 18 năm. Cùng năm đó, vương triều Nam Minh lưu vong ở Miến Điện chấm dứt, báo hiệu sự diệt vong thực sự của nhà Minh. Đây là toàn bộ ý tứ của câu “Thập bát niên gian Thủy Hỏa đoạt”.

Sau đó, câu “Dung nhân bất dụng Thủy Hỏa thần” lại là một phép đố chữ khác. Chữ “dung” (庸) bỏ đi chữ “dụng” (用) bên dưới và thay vào chữ “Thủy” (水) là thành chữ “Khang” (康); Bên dưới chữ “thần” (臣) thêm chữ “Hỏa” (火), tức là bốn dấu chấm nhỏ, lại thêm chữ “Tỵ” (巳) , liền trở thành chữ “Hy” (熙). Nhưng chờ đã, chữ “Tỵ” (巳) ở đâu ra?

Một số cao thủ trên mạng giải thích rằng nhà Minh thuộc Hỏa, Hỏa là Dương. Trong Chu Dịch cho rằng Dương khởi đầu là “Tử” (子), chung kết là “Tỵ” (巳). Dương khí khởi đầu của nhà Minh đã kết thúc dưới thời trị vì của Khang Hy, ở đây chẳng phải là uẩn hàm một chữ “Tỵ” (巳) sao?

Câu sau “Quái phân khí số thiểu tam số” (卦分氣數少三數) dự ngôn chính xác thời gian hoàng đế Khang Hy trị vì. Đều nói Chu Dịch tám tám sau mươi tư quẻ, sáu mươi tư (lục thập tứ) thiếu ba số chính là sáu mươi mốt, vừa khớp là số năm Khang Hy tại vị.

Xem ra trò chơi đố chữ trong dự ngôn thật là thú vị phải không? Vậy thì trong dự ngôn nói gì về Trung Hoa Dân Quốc và xã hội đương đại?

Vận khí của Trung Hoa Dân Quốc

Chúng ta hãy nhìn vào câu này:

“Thủ chấp cương lực cửu thập cửu, sát tận Hồ nhân phương bãi hưu.” (手執鋼刀九十九,殺盡胡人方罷休.)

Có cao thủ giải thích, “cửu thập cửu”, hay chín mươi chín, là một trăm trừ một, là nhất bách giảm nhất (一百減一). Chữ “bách” (百) bỏ đi chữ nhất (一), còn lại là chữ “Thạch” (石), chỉ Tưởng Giới Thạch. “Hồ nhân” là man di ngoại bang, cũng có thể giải đọc là Liên Xô cộng sản, hoặc cũng có thể là phát xít Nhật. Tưởng Giới Thạch quyết tâm tiêu diệt những “ngoại di” này, cũng chính là “sát tận Hồ nhân phương bãi hưu”, diện hết quân địch man di mới nghỉ hưu.

Từ đầu năm 1931, khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên bao vây và đàn áp ĐCSTQ, cho đến khi rút lui về Đài Loan năm 1949, Tưởng Giới Thạch đã chiến đấu kiên cường chống lại ĐCSTQ và quân Nhật xâm lược Trung Quốc suốt 18 năm. Chính phủ Trung Quốc cũng từ Nam Kinh chuyển đến Đài Bắc, đây là chuyện xảy ra tiếp theo trong câu “Pháo hưởng hóa yên mê khứ lộ, thiên nam thiên bắc lục tam thu” (炮響火煙迷去路,遷南遷北六三秋). Chữ “nam” và “bắc” trong “thiên nam thiên bắc” đối ứng là Nam Kinh và Đài Bắc. Mà hai chữ “lục tam”, làm một phép nhân đơn giản ba sáu mười tám, là chỉ 18 năm.

Hai câu tiếp theo “Khả liên nan độ nhạn môn quan, trích tận Lý hoa Hồ bất hoàn” (可憐難渡雁門關,摘盡李花胡不還) là nói Tưởng Giới Thạch chưa thể hoàn thành chí hướng của ông, đánh đuổi quân man rợ ngoại bang khỏi bờ cõi (nhạn môn quan), mà lui về giữ Đài Loan. Chữ “Lý” trong câu thứ hai chỉ tổng thống Lý Tông Nhân của chính phủ Dân Quốc đương thời, chữ “Hồ” đối ứng là thượng tướng Hồ Tông Nam của Quốc quân phải rút lui khỏi đại lục.  “Trích tận Lý hoa Hồ bất hoàn”, nghĩa đen là hoa mận (Lý hoa) hái hết, “Hồ” cũng không quay về, đây chính là nói, chính phủ Dân Quốc một khi rời đi là không thể quay về được, đối ứng chính là hiện trạng phân chia eo biển Đài Loan hiện nay.

Vậy làm sao chúng ta biết rút lui về Đài Loan? Đáp án nằm ở câu tiếp theo.

“Hoàng Ngưu sơn hạ hữu nhất động, khả đầu thiệp vạn bát thiên chúng” (黃牛山下有一洞,可投拾萬八千眾). 

Phần trên của chữ “ngưu” (牛) trông giống chữ “khư” (厶), còn chữ “động” (洞) có thể xem là chữ “khẩu” (口), sự kết hợp giữa phần trên và phần dưới là chữ “Đài” (台) của Đài Loan. Đài Loan có thể thu nạp được “thiệp vạn bát thiên” người, nghĩa là thu nạp được rất nhiều người.

Phúc cho những người di tản đến Đài Loan. Bởi vì “Tiên đáo chi nhân đắc an ổn, hậu đáo chi nhân bán lộ tống. Nan thứ hữu tội vô bất tội, thiên hạ toán lai dân tận tụy.” (先到之人得安穩,後到之人半路送。難恕有罪無不罪,天下算來民盡瘁). Ba câu sau nói đến những người ở lại đại lục, tính mạng rất khó bảo toàn. Bởi vì vào niên đại đó tại Trung Quốc đại lục, rất nhiều người có tội hay không có tội đều bị định tội, cũng rất nhiều người bất hạnh mà chết, “dân tận tụy” (民盡瘁) tức là thiên hạ dân chúng cực khổ cùng tận.

Đồng thời, Lưu Bá Ôn cũng cảnh giới, rằng Đài Loan chỉ có thể kiên thủ chính đạo mới có thể thuận lợi thành công. Điều này được thể hiện trong câu: “Hỏa sơn lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu tinh” (旅,銀河織女讓牛星). “Hỏa sơn lữ” là quẻ thứ 56 của “Chu Dịch”, quẻ từ là “Lữ, tiểu hưởng, lữ trinh cát”. Trong đó, “Lữ, tiểu hưởng” là chỉ lưu lạc quê người, không làm được điều gì lớn lao. “Lữ trinh cát” có nghĩa là chỉ kiên trì tuân thủ con đường chính đạo thì bạn mới có thể gặp may mắn cát tường. “Ngân Hà” ở vế sau là ám chỉ eo biển Đài Loan, sao Chức Nữ Đài Loan và sao Ngưu Lang Trung Quốc đại lục mỗi bên thủ giữ một phương, đó là tình trạng hiện tại hai bờ eo biển.

Sao lại có một chữ “nhượng” (讓) ở giữa, một số người giải thích rằng chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan đã trao đại lục cho đảng Cộng sản, trong khi những người khác giải thích rằng nếu xảy ra chiến tranh qua eo biển Đài Loan trong tương lai, Đài Loan có thể ở vào thế bất lợi. Vậy theo bạn nên hiểu nó như thế nào?

Bây giờ đến trọng điểm, trong dự ngôn nói gì về tương lai then chốt nhất đối với chúng ta?

“Thiên hỏa chi nạn”

Trong dự ngôn nói, tương lai có thể sẽ xảy ra một “thảm họa lửa trời” khổng lồ:

“Hỏa Đức tinh quân lai hạ giới, kim điện lâu đài tận bính đinh.”
(火德星君來下界,金殿樓臺盡丙丁.)

“Hỏa Đức tinh quân” là chỉ Thần Lửa. “Hỏa Đức tinh quân lai hạ giới” nghĩa là nói, lửa sẽ từ trên trời giáng xuống. Còn “Bính Đinh” đều thuộc Hỏa trong Ngũ Hành, “tận Bính Đinh” nghĩa là hết thảy mọi thứ sẽ bị nuốt chửng trong biển lửa. Rất đáng sợ.

Và hình bóng của hỏa hoạn này cũng có thể được nhìn thấy trong những dự ngôn khác. Trong “Ngũ Công Kinh” nói: “Thiên sứ quỷ vương bả hỏa thiêu, nhất thiết vạn dân tao tân khổ”, ý tứ là thiên sứ và quỷ vương phóng lửa thiêu đốt, hết thảy dân chúng phải chịu cay đắng khổ nạn. Sách “Thái thượng đồng nguyên thần chú kinh” của Đạo gia cũng nói: “Quỷ dài ba xích sáu thốn, thường nắm giữ lửa trời, thiêu đốt nhà cửa tại nhân gian”. Nhà tiên tri mạnh nhất của Nhật Bản mà chúng tôi từng giới thiệu, ông Onisaburo Deguchi, cũng dự ngôn về một “cơn mưa lửa từ trên trời giáng xuống”.

Dự ngôn nổi tiếng nhất của phương Tây trong Kinh Thánh Khải Huyền cũng giảng thập phần minh xác rằng, khi ngày mạt thế đến, Thần sẽ giáng xuống một “thảm họa lửa trời”. Dự ngôn đó nói:

“Vị thiên sứ thứ nhất thổi kèn, sẽ có mưa đá và lửa trộn lẫn với máu ném xuống đất. Một phần ba Trái đất và một phần ba cây cối sẽ bị thiêu cháy, tất cả cỏ xanh sẽ bị đốt cháy.”

“Vị thiên sứ thứ hai thổi kèn, một ngọn núi lớn như lửa thiêu bị ném xuống biển. Một phần ba biển sẽ biến thành máu. Một phần ba sinh vật trong biển sẽ chết, một phần ba tàu thuyền cũng bị tiêu diệt.”

“Vị thiên sứ thứ ba thổi kèn, có một ngôi sao cháy lớn như ngọn đuốc từ trên trời rơi xuống, rơi xuống một phần ba sông ngòi và trên những suối nguồn của nước.”

Vậy liệu thảm họa lửa từ trời giáng xuống này liệu có đến không? Nếu nó thực sự đến, thì chúng ta cần hóa giải thế nào?

Trên thực tế, những nhà dự ngôn này tâm địa đều rất lương thiện, khi dự ngôn họa nạn, họ cũng đồng thời thường đưa ra phương án giải quyết. Lưu Bá Ôn đưa ra phương án gì? Tương lai của chúng ta liệu có còn tươi sáng? Lần tới chúng tôi sẽ hạ hồi phân giải.

Theo Epoch Times,
Hương Thảo biên dịch