Người ta đã phát hiện nhiều quần thể kiến trúc nhân tạo kỳ lạ dưới đáy các vùng biển trên khắp thế giới. Giới khoa học nhận định, đây có thể là di sản của các nền văn minh thời viễn cổ, bị nhấn chìm xuống nước bởi thảm họa hoặc do biến động địa chất.
Với hơn 70% bề mặt Trái Đất được bao phủ bởi nước, chúng ta mới chỉ khám phá thành công 1-2% thềm các đại dương. Mỗi khi ai đó lặn xuống, họ lại tìm thấy thứ gì đó mới mẻ, bất kể là các loài sinh vật biển chưa biết đến, các kiến tạo địa chất chưa được ghi nhận dưới đáy đại dương, hay thứ gì đó từ thế giới con người. Chúng có thể là:
Xác tàu đắm …
Các hiện vật…
Hay các thành phố
Những thành phố từ xa xưa
Các nhà khoa học bảo chúng ta rằng hơn 10 TRIỆU KM VUÔNG ĐẤT LIỀN (kích thước tương đương Trung Quốc và Châu Âu gộp lại), trước đây tất cả chúng đều nằm trên mặt nước, nhưng hiện đều nằm dưới đáy biển. Do đó, liệu có gì đáng kinh ngạc nếu chúng ta tìm thấy các thành phố ngầm dưới biển? Khu vực mà hiện nay chúng ta gọi là các thềm lục địa (các vùng biển nông bao quanh rìa các lục địa, trong một số trường hợp trải dài ra ngoài khơi vài trăm km), ví như vùng biển Địa Trung Hải và Biển Đen như chúng ta thấy ngày nay trước kia đều từng là các vùng đất liền.
Biển Địa Trung Hải là một trong những vùng biển nông hơn, tại đây thường xuyên diễn ra các dự án khảo cổ. Người ta đã phát hiện được khoảng hơn 200 thành phố dưới đáy biển Địa Trung Hải. Chúng không chỉ hội tụ xung quanh các bờ biển, nơi chúng có thể dễ dàng tách lở do sạt lở đất ven biển, mà trên thực tế chúng phân bổ khắp khu vực đáy biển, tại các độ sâu khác nhau.
Không lạ gì, các học giả tiến hóa không hứng thú với những phát hiện này, họ không muốn đi sâu nghiên cứu những di tích thành cổ dưới đại dương. Từ trước đến nay, các nghiên cứu của họ chỉ giới hạn vào các xác tàu đắm, hay những thứ tương tự. Bởi rất khó để lý giải chúng dựa trên cái khung lý thuyết hiện nay.
Trước hết, hãy thử xem xét Châu Mỹ.
Châu Mỹ
Mọi việc bắt đầu khi chính phủ Cuba thuê một số nhà hải dương học tác nghiệp tại vùng biển nằm giữa điểm cực tây Cuba và bán đảo Yucatan, ngoài khơi khu vực mà người Cuba gọi là bán đảo Guanahacabibes.
Khi lập bản đồ đáy biển tại khu vực sử dụng công nghệ chụp quét sonar cạnh sườn, các nhà khoa học bắt đầu nhận thấy dấu tích của các cấu trúc dạng đường thẳng trông rất cân đối – nằm khoảng nửa dặm dưới mặt nước (670 m).
Các thợ lặn không thể hoạt động tại độ sâu với mức áp suất khủng khiếp như thế, do đó họ đã gửi xuống đó các tàu ngầm điều khiển từ xa ROV. Đây là các robot tự hành có thể di chuyển như tàu ngầm nhỏ, trang bị đèn pha và camera có thể gửi tín hiệu hình ảnh lên bề mặt.
Cái họ nhìn thấy là các công trình cự thạch khổng lồ (các công trình được xây từ những tảng đá nguyên khối cỡ lớn), nặng khoảng 40 đến 50 tấn, tảng này đặt chồng lên tảng kia. Các công trình này có các góc cạnh hình vuông, đường thẳng và đường cong tròn, chắc chắn không thể tồn tại nếu thiếu bàn tay tạo tác của con người.
Sau quá trình chụp quét và lập bản đồ chi tiết công phu, các nhà thám hiểm đã xác định được 30 công trình ngầm, giữa chúng xen kẽ các đại lộ rộng lớn. Dựa trên các hình ảnh tái lập, có thể thấy các di chỉ này trông rất giống các thành phố ở Trung Mỹ mà chúng ta có thể thấy trên khắp Mexico và bán đảo Yucatan, được xây bởi người Maya, người Aztec, người Toltec và những tộc người bản địa khác.
Dựa trên hình minh họa của các nhà hải dương học, có thể thấy những đường nét kiến trúc khá quen thuộc như ở các di chỉ cổ đại như Chichen Itza hay Teotihuacan hay Palenque. Có các kim tự tháp dạng bậc thang, cao, mỏng ở phía sau, cạnh kế bên là các quảng trường rộng lớn.
Dựa trên nét kiến trúc bề mặt, rõ ràng các công trình ngầm dưới biển này có mối liên hệ nào đó với các công trình ở rất nhiều di tích thành phố cổ của người bản địa da đỏ ở Trung Mỹ ngày nay, nhưng chúng lại nằm sâu dưới đáy biển nửa dặm. Không có bất kỳ ghi chép hay truyền thuyết của bất kỳ nền văn hóa bản địa nào đề cập đến thành phố ngầm như vậy, cho nên đây chắc hẳn là nơi bị nhấn chìm dưới đại dương từ cách đây rất lâu vào thời viễn cổ.
Ấn Độ
Tại Ấn Độ người ta cũng đã có một số phát hiện thú vị. Năm 2001, Viện Hải dương Ấn Độ tiến hành các cuộc khảo sát hải dương học ở Vịnh Khambhat để nghiên cứu tác động của ô nhiễm đối với môi trường biển ở đây.
Khoảng 11 dặm ngoài khơi, trong khi đang chụp quét phần đáy biển với công nghệ sonar quét sườn, tại độ sâu 50 m, họ bắt đầu chụp được các đướng nét kiến trúc khá cân đối, đều đặn và lặp lại – các đường thẳng hình thành nên các mạng lưới ô vuông. Điều này rất đáng chú ý, bởi nó bao phủ một vùng diện tích biển rộng trải dài 13 km^2.
Hay tin, chính phủ Ấn Độ đã ngay lập tức điều các nhóm thám hiểm và khảo sát đến hiện trường. Hoạt động ngầm dưới nước tại hiện trường đối với thợ lặn là rất nguy hiểm và khó khăn, bởi có nhiều dòng chảy cắt ngang vô cùng mạnh mẽ trong khu vực.
Không chỉ vậy, họ còn xác định được rất nhiều công trình đã tạo nên các vật thể dạng lưới trên màn hình thiết bị sonar của họ. Đó chính là các bức tường đá dài có thể nhìn thấy rất rõ dưới đáy biển, rõ ràng được tạo từ các khối đá được cắt xẻ, định hình và xếp chồng lên nhau.
Nhóm khảo sát đã xác định được hai thành phố biệt lập, cả hai đều nằm bên bờ một lòng sông cũ. Cả hai thành phố đều lớn và được xây rất quy mô. Bản đồ mạng lưới các con phố gợi tưởng đến các di chỉ khảo cổ Mohenjo-Daro, Harrapa và các thành phố cổ đại khác của nền Văn minh lưu vực sông Ấn.
Thú vị hơn, họ đã có thể thu thập được hàng chục di vật và bằng chứng định cư của con người, bao gồm các di vật bằng đá, gốm, kim loại và gỗ. Thậm chí họ còn tìm thấy các mảnh xương còn sót lại.
Các học giả phương Tây thường cho rằng văn minh và lịch sử Ấn Độ là thấp kém hơn, hay bắt nguồn từ các nền văn minh khác, chứ không phải xuất sinh một cách độc lập. Họ nhận định người Ấn Độ có nguồn gốc Trung Đông, rồi di cư tới đây, do đó người Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu (ám chỉ nguồn gốc giả thuyết về người Ấn Độ). Tuy nhiên, truyền thống và lịch sử Ấn Độ lại miêu tả một giai đoạn lịch sử rất phong phú và lâu dài, trải dài hàng nghìn năm. Các học giả Ấn Độ đã đến khảo sát các di chỉ ở Vịnh Khambhat và hiện nghiên cứu vẫn đang được tiến hành.
Cách di chỉ vịnh Khambhat khoảng 300 km về phía bắc, là thành phố Dwarka (còn gọi là Dwaraka). Các cuộc khai quật bên dưới thành phố cổ này đã hé lộ các dấu tích của một thành phố cổ đại hơn nằm dưới mặt nước.
Tiến hành khảo sát vùng biển lân cận, các thợ lặn đã tìm thấy các tàn tích ở ngoài khơi không xa, ở độ sâu chỉ khoảng 20 m. Các học giả Ấn Độ cho rằng đây rất có thể là thành cổ Dwaraka, mà theo các cổ thư tiếng Phạn thì từng là một thành phố rộng lớn, trù phú nhưng đã bị sụp đổ do bị nước biển nhấn chìm. Thành cổ Dwaraka xuất hiện rất phổ biến trong nhiều sự tích cổ của đạo Hindu, do đó đối với người Ấn Độ đây là một khám phá đặc biệt thú vị. Có thể tưởng tượng, sự phấn khích này cũng lớn như khi các tín đồ Công giáo tìm thấy Khu vườn của Eden hay con tàu Nô-ê trong huyền thoại.
Ngoài ra, về phía bắc không xa, gần thành phố Shrivardhan, người ta cũng đã tìm thấy một bức tường ngầm dưới đáy biển, rõ ràng được tạo ra nhờ bàn tay của con người. Bức tường dài gần 1,2 km, tức dài bằng khoảng 7 khu nhà bình thường xếp liên tiếp nhau.
Tại khu vực lân cận, người ta cũng tìm thấy nhiều dãy tường ngầm khác, có chiều dài tổng cộng lên đến 24 km.
Người ta đã phát hiện được nhiều dãy tường nhân tạo ngầm ngoài khơi bờ biển phía Tây Ấn Độ, với chiều dài tổng cộng lên đến 24 km. Ảnh: Google Maps
Một điều trùng hợp thú vị là các truyện cổ Ấn Độ có miêu tả các vùng đất khô cằn (không chỉ là vùng đất, mà còn cả quốc gia) trải dài nhiều dặm về phía khu vực mà hiện là các vùng biển Ả Rập và Ấn Độ Dương.
Nhật Bản
Hướng ánh nhìn về phía đông biển Thái Bình Dương, bạn sẽ nhìn thấy một hòn đảo nhỏ nằm ở phía cực nam của Quần đảo Nhật Bản.
Hòn đảo nhỏ này, được gọi là Yonaguni, nằm gần kề đảo Đài Loạn. Yonaguni nổi tiếng với nhiều công trình chạm khắc đá – những công trình rất cổ phác, không rõ ai đã xây dựng nên.
Năm 1987, Kihachiro Aratake, chủ sở hữu một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lặn trên đảo Yonaguni, lúc đó đang tìm kiếm các địa điểm lặn mới cho khách hàng của mình.
Tại độ sâu 20-30 m dưới mặt nước biển, ông đã tìm thấy một tổ hợp công trình lớn, đồ sộ bằng đá, có kích thước bằng hai sân bóng. Hay tin, hàng trăm thợ lặn và nhà khoa học đã đến khảo sát khu vực.
Tuy rằng các khối đá cấu tạo nên công trình này khá phổ biến trong khu vực và có thể hình thành trong tự nhiên dưới dạng các lớp hình chữ nhật hay tinh thể, nhưng công trình này không phải đơn thuần là một thành tạo tự nhiên.
Có các con đường, thông đạo và lối đi hình chữ nhật vô cùng vuông vắn, với các bậc thang.
Có các cấu trúc hình tam giác cắt chéo dọc trên các khối đá.
Tại một nơi có hai trụ đá kích thước rất lớn (trụ đá cự thạch) được đặt sát cạnh nhau, một cách rất vuông vắn nên không thể nói rằng chúng chỉ ngẫu nhiên rơi đổ xuống vị trí như vậy.
Ngoài ra, có nhiều tảng đá lớn chạm khắc hình mặt người, một số dài đến 7 m.
Bên trên là hình một mặt người lớn được chạm khắc vào đá, đang nhìn về phía bên trái. Hình mặt người trông giống một thổ dân da đỏ bản địa Châu Mỹ.
Bên cạnh những khuôn mặt, còn có các hình chạm khắc đá, miêu tả hình tượng của rùa, cá, con thuyền, mặt trời v.v… Hình dưới là một số hình chạm khắc được phát hiện tại di chỉ.
Sau phát hiện đầu tiên, khoảng hơn nửa chục các di chỉ có liên hệ khác đã được phát hiện trong khu vực lân cận, nhưng không di chỉ nào đủ lớn và tinh xảo như cái đầu tiên. Bên cạnh đó, các nhà thám hiểm và nhà khoa học đã tìm thấy vô số công cụ lao động và di vật của con người.
Như một thông tin bổ sung bên lề, có tư liệu cho rằng Ashurbanipal (668 – 627 trước Công nguyên), một vị vua Assyria, được biết là đã thu thập bản sao tất cả các sách vào thời ông để cất trong thư viện. Ông đã để lại các ghi chú cho biết rằng ông có thể đọc các bản thảo từ trước trận Đại Hồng Thủy , và miêu tả các thành phố và nền văn minh tồn tại khi đó, nhưng về sau đã bị nhấn chìm xuống đáy biển bởi trận lụt.
Trận Đại Hồng Thủy trong Kinh Thánh phải chăng chỉ là một câu chuyện truyền thuyết huyễn hoặc? Ở độ cao gần 2.000m thuộc dãy núi Ararat, gần biên giới Iran – Thổ Nhĩ Kỳ, người ta đã phát hiện được một vật thể có hình dáng giống một con tàu. Sau quá trình khảo sát, phân tích qua nhiều năm, các nhà khoa học đã xác thực được đây chính là xác một con tàu cổ đại. Năm 1987, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ chính thức xác nhận đây là con tàu Nô-ê nổi tiếng trong truyền thuyết về Trận Đại Hồng Thủy, và coi đây là báu vật quốc gia.
Rốt cuộc ai đã xây dựng nên những công trình nằm dưới đáy biển tại các châu lục đó? Tại sao chúng lại bị chìm xuống đáy biển? Trả lời được những câu hỏi này, chúng ta sẽ có một cái nhìn rõ ràng, chính xác hơn về lịch sử nhân loại, về những nền văn minh thất lạc từng phát triển rất phồn thịnh, rực rỡ.
Tác giả: Randy Michael Ferguson
Thanh Thủy biên dịch