Chào mừng quý vị đến với Chuyên mục Văn hóa của Đại Kỷ Nguyên.

Trong Phật giáo có câu “Một ngày phương trời, ngàn năm mặt đất” chỉ ra sự huyền bí của các thời gian không gian khác nhau. Thuyết trường thời gian trong giới thần học cũng là một lĩnh vực cao thâm mà vật lý cao năng lượng luôn tìm kiếm. Pháp sư Khoan Tịnh (1924-2007), đương thời là trụ trì chùa Mạch Tà Nham, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đã lưu lại thể nghiệm đích thân mình trong cuốn sách “Tây Phương Cực Lạc thế giới du ký”, triển hiện cho hậu thế sự tồn tại của những thời-không khác nhau.

Nguyên thần ly thể

Người tu luyện khi đang đả tọa thiền định có thể nhìn thấy những sinh mệnh ở không gian khác, nhìn thấy những sự việc xảy ra trong quá khứ hoặc trong tương lai. Giới tu luyện giảng rằng đây là “nguyên thần ly thể” đến một thời không khác. Thời gian trong thời không mà nguyên thần trải qua không tương đồng với thời gian trên Trái đất, và cảnh giới mà nguyên thần của người tu luyện có thể thăng lên cũng khác biệt tùy theo tầng thứ của họ. Trong thế giới Tây phương Cực Lạc, còn có tầng tầng thế giới khác nhau. Trong cuốn sách “Tây Phương Cực Lạc thế giới du ký” của pháp sư Khoan Tịnh, chúng ta có thể nhìn thấy một số mô tả.

Pháp sư Khoan Tịnh (tục danh Phan Kim Vinh) sinh ngày 7 tháng 7 năm 1924, tại số 140 đại lộ Trấn Đông, thị trấn Thành Quan, huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, có cha là một cư sĩ tín Phật. Ông từ nhỏ không đi học, nhưng tư chất trời phú thông minh hơn người, 7 tuổi đã xuất gia tại chùa Giáo Trung tỉnh Phúc Kiến, năm 15 tuổi cạo đầu, trở thành đệ tử của lão hòa thượng Hư Vân, chính thức xuất gia tại chùa Nam Bình Khai tỉnh Phúc Kiến, 17 tuổi thụ cụ túc giới tại chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông, cũng nhận chính nhãn pháp tàng của lão hòa thượng Hư Vân tại núi Vân Cư tỉnh Giang Tây, trở thành người kế thừa đời 48 của tông Đồng Vân. Khi 43 tuổi, ông có một trải nghiệm kỳ diệu, nguyên thần ly thể du hành đến thế giới Cực Lạc. 

Đương thời, pháp sư Khoan Tịnh là trụ trì chùa Mạch Tà Nham thuộc huyện Đức Hóa, tỉnh Phúc Kiến. Chuyến đi đến Tây Phương Cực Lạc này diễn ra khi ông đang thiền định vào ngày 25 tháng 10 năm 1967. Ông cảm giác mình đã du hành đến Tây Phương Cực Lạc khoảng 20 giờ. Tuy nhiên, khi trở lại nhân gian, phát hiện đã là ngày 8 tháng 4 năm 1973. Điều này thể hiện sự khác biệt thời gian rất lớn trong những trường thời không khác nhau. Một ngày ở thế giới Tây Phương Cực Lạc nơi pháp sư Khoan Tịnh đến, là khoảng sáu năm ở nhân gian của chúng ta. Trong thời gian này, các tu sĩ và cư sĩ của chùa Mạch Tà Nham đã tìm kiếm hơn một trăm hang động lớn nhỏ trên núi, liên tục tìm kiếm trong vài năm, nhưng pháp sư Khoan Tịnh đơn giản là biến mất. Ai ngờ, hơn 5 năm 5 tháng sau, pháp sư Khoan Tịnh xuất hiện trở lại ngay trước mặt họ.

Pháp sư Khoan Tịnh nói rằng nguyên thần của ông đã du hành đến Tây Phương Cực Lạc, nơi ông được bái kiến Bồ Tát Di Lặc, Phật A Di Đà, đồng thời cũng gặp được sư phụ của mình, hòa thượng Hư Vân. Lâm Đạo Nhất, một người cùng làng đã qua đời, cũng nhờ ông gửi lời chào đến người thân của mình khi ông trở lại thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà chính là nhân gian của chúng ta.

Nghe thấy kiếp trước của chính mình

Nguyên thần của pháp sư Khoan Tịnh ly khai cơ thể. Ông kể, ông đang đả tọa đột nhiên nghe thấy có người gọi mình, nên đã rời khỏi chùa, trên đường đi, ông làm quen với pháp sư Viên Quán (là hóa thân của “Bồ Tát Quán Thế Âm”). Pháp sư Viên Quán mời ông cùng đi đến Động Di Lặc ở núi Cửu Tiên, ngọn núi cao nhất ở Phúc Kiến, để du lịch.

Trên đường đi, pháp sư Viên Quán, giống như trong thần thoại, kể cho pháp sư Khoan Tịnh nghe về quá khứ nhiều kiếp trước Khoan Tịnh đã từng là ai, xuất sinh ở địa điểm nào, thời gian nào, pháp sư cũng nói rất nhiều về nhân quả. Lúc đó, trí nhớ của pháp sư Khoan Tịnh đặc biệt tốt, mỗi lời ông nghe được đều cẩn thận ghi nhớ trong tâm. Khi đó, pháp sư Khoan Tịnh tuy là trụ trì chùa Mạch Tà Nham, nhưng không có công năng túc mệnh thông nhìn thấu quá khứ và tương lai. Pháp sư Viên Quán đã kể cho ông nghe về rất nhiều kiếp trước của ông, yêu cầu ông phải ghi nhớ thật rõ ràng là có dụng ý riêng!

Năm 1973, khi pháp sư Khoan Tịnh trở lại nhân gian, ông đã y lời chỉ bảo, đến các nơi để điều tra tiền kiếp của mình, kết quả đều ấn chứng có người như vậy, thời gian và địa điểm không sai. Ngoại trừ một kiếp, những kiếp khác ông đều xuất gia làm hòa thượng. Trong kiếp không xuất gia, ông là một cư sĩ tu tại gia sinh ra ở thôn Quế Cách, Thượng Dũng vào những năm Khang Hy triều nhà Thanh, tên là Trịnh Viễn Tư, sinh được 6 trai 2 gái, trong đó có một người trúng tiến sĩ, sau khi kiểm tra địa chỉ, thời gian, phần mộ, tất cả đều xác thực. Đến thời điểm ông điều tra, con cháu hậu duệ của người này đã có 121 gia đình, với tổng cộng hơn 450 người.

Nhiều kiếp trước của pháp sư Khoan Tịnh đã được ông chứng thực trong kiếp này, đây có thể là triển thị của pháp sư Viên Quán, hóa thân của “Quán Thế Âm Bồ Tát” để nói với thế nhân rằng, nguyên thần là bất tử! Hơn nữa, sự tích lũy công lực tu hành của một người không biến mất vào hư không, mà  được nguyên thần mang theo để tiếp tục tu luyện ở kiếp sau, tuy nhiên, danh lợi nhân gian thì không thể mang theo khi chết, nhân sinh đa kiếp của pháp sư Khoan Tịnh đã chứng minh điểm này.

Nhận được khải thị tại Động La Hán

Khi họ đến núi Cửu Tiên và đi được nửa đường lên núi, một cảnh tượng kỳ dị liền xuất hiện! Con đường trước mắt đột nhiên biến hóa, không còn là con đường của núi Cửu Tiên mà ông bước đi trước đó nữa. Con đường này được làm bằng đá, ánh sáng ẩn ẩn hiện hiện, trông rất kỳ lạ. Khi đến cuối núi, chỉ thấy nó nguyên lai không phải là một sơn động cũ, mà là một ngôi chùa lớn mà ông trước đây chưa từng thấy, vô cùng uy nghi tráng lệ, so với cố cung Bắc Bình, nó còn hùng vĩ tráng quan hơn nhiều. Hai bên ngôi chùa lớn còn có một tòa bảo tháp. Cổng núi xây bằng đá trắng hùng vĩ tráng lệ, trên cổng lớn có một tấm biển lớn bằng vàng, kim quang lấp lánh, phía trên viết mấy chữ lớn bằng vàng, nhưng pháp sư Khoan Tịnh nhìn không hiểu. Có thể thấy rằng, pháp lý của những thế giới khác nhau cũng sẽ triển hiện khác nhau.

Dưới sự hướng dẫn của Bồ Tát Quán Thế Âm, ông đã đến “Tây Phương Cực Lạc thế giới”, thăm quan Động La Hán, Trời Đao Lợi, Trời Đâu Suất và các cảnh giới hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm liên hoa, mỗi phẩm là 3 tầng thứ. Tầng thứ càng cao, quang huy của vật chất phát ra càng mỹ diệu.

Trong động La Hán, pháp sư Khoan Tịnh gặp một lão hòa thượng. Pháp sư Khoan Tịnh thỉnh ông ấy khai thị về tiền cảnh tương lai của Phật giáo. Lão hòa thượng không nói một lời, chỉ viết lên giấy tám chữ: “Phật tự tâm tác, giáo do ma chủ”. Một vị lão hòa thượng khác giải thích: “Tám chữ này, có thể phân tách chúng theo chiều ngang dọc, dọc ngang, trái phải, phải trái, lên xuống, xuống lên, đọc ra 36 câu là có thể biết được tình huống trong một trăm năm tiếp theo của Phật giáo.”

Sau đó, pháp sư Khoan Tịnh ngồi tĩnh tọa trên một chiếc ghế lớn trong phòng, vừa mới ngồi xuống, Bồ Tát Quán Thế Âm liền nói, thời gian không còn nhiều, đưa ông thẳng đến Trời Đâu Suất.

Khải thị nhận được ở Trời Đâu Suất

Tại Trời Đâu Suất, ông đã bái kiến Bồ Tát Di Lặc, gặp lại sư phụ của ông, lão hòa thượng Hư Vân, còn có đại sư Vinh Phúc đã vãng sinh. Sư phụ dặn dò ông ở thế giới Sa Bà hãy chịu khổ tu luyện, nghiệp chướng cần phải trải qua khảo nghiệm mới có thể tiêu trừ dần dần.

Đại sư Vinh Phúc nói với ông: “Người trên thiên giới thích an dật hưởng thụ, không muốn tu hành, giống như những người đại phú quý ở nhân gian không muốn xuất gia, chỉ ngồi hưởng lạc trước mắt, ít biết rằng họ chưa xuất khỏi lục đạo luân hồi trong tam giới, không thể thoát khỏi sinh tử. Chúng tôi lắng nghe Bồ Tát Di Lặc thuyết pháp ở đây, tương lai sẽ lại giáng thế độ chúng sinh, mới có thể chân chính tiến nhập đạo Bồ tát, thoát khỏi sinh tử…” 

Ý tứ của đại sư Vinh Phúc là, ngay cả sau khi tu đến tầng trời thoát ly nhân giới, thì vẫn chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, trên trời lại có trời, người trời cũng sẽ phải hạ thế độ chúng sinh hành đại thiện, mới có thể thực sự tiến nhập vào đạo Bồ tát.

Tiếp đó, lão hòa thượng Hư Vân khai thị cho ông: “Vào thời kỳ mạt pháp,  trong hoàn cảnh ác liệt nhất vẫn nên phải kiên trì khổ độ chúng sinh, không được tham hưởng lạc, không được chạy trốn nghịch cảnh, tất phải giác ngộ cho người ác quay đầu hướng thiện, làm người tốt mới có cuộc sống hữu hảo, thanh tĩnh tu hành.”

Trời Đâu Suất có một ao sen, sau khi diện kiến họ, pháp sư Khoan Tịnh theo lời Bồ tát Quán Thế Âm bước xuống ao gội đầu rửa mình, quả nhiên như lời Bồ tát nói, y phục đều không bị ướt. Càng kỳ diệu hơn là, muốn nổi, chìm hay trôi đều do ý niệm của chính mình khống chế. 

Ghé thăm Thế giới Cực Lạc, bái kiến Đức Phật A Di Đà

Sau khi rời khỏi “Trời Đâu Suất”, pháp sư Khoan Tịnh theo chỉ thị của Bồ Tát Quán Thế Âm niệm trì chú, dưới chân liền xuất hiện một đài sen, đài sen đưa ông bay lên trời. Trên đường, bên tai vang lên tiếng vo vo, nhưng không phải vì gió, mà là tốc độ bay rất nhanh, khó có thể hình dung, rất nhanh đã đến đầu bên kia. Chỉ khoảng một khắc sau, dưới đài sen, ông nhìn thấy mình đã tới cảnh giới “Thất trọng la võng, thất trọng hành thụ” được nhắc đến trong Kinh Phật. Nơi đó cát vàng phủ đầy mặt đất, từng hàng từng hàng cổ thụ thân cao 10 trượng đều là cành vàng lá ngọc. Những chiếc lá hình tam giác, hình ngũ giác, hình thất giác, tất cả đều phát sáng nở hoa, các loài chim tuyệt đẹp, thân mình phát sáng, có con chim có hai đầu hoặc nhiều đầu, hai cánh hoặc nhiều cánh, chúng tự do tự tại bay nhảy trên mặt đất, ca xướng thánh hiệu của Phật A Di Đà, bốn bề đều có lan can 7 màu. Pháp sư Khoan Tịnh tai nghe mắt thấy rất nhiều giọng nói, nhưng ông chỉ nghe mà không hiểu. Trên đường còn nhìn thấy rất nhiều tòa tháp cao, đều là do thất bảo, tức 7 báu vật quý giá nhất kết thành, phát sáng lung linh.

Chẳng bao lâu, họ đến trước một ngọn núi vàng lớn, so với núi Nga Mi ở Trung Quốc, không biết là cao lớn hơn bao nhiêu lần. Không còn nghi ngờ gì nữa, ông cảm thấy mình đã đến trung tâm của “thế giới Tây Phương Cực Lạc”.

Bồ Tát Quán Thế Âm hua tay nói với ông: “Đến rồi, Phật A Di Đà ở ngay trước mặt con, con có thấy không?” Nhưng pháp sư Khoan Tịnh chỉ thấy một bức tường đá lớn che khuất tầm mắt, nguyên đó là ngón chân của Đức Phật A Di Đà. Sau đó Phật A Di Đà khiến cho thân thể ông cao đến thắt lưng Ngài.

Quán Thế Âm đính lễ Phật A Di Đà. Khi đó, pháp sư Khoan Tịnh kinh ngạc trước cảnh giới thù thắng của nước Cực Lạc, cảm thấy nhân gian sao mà thống khổ, không muốn trở về, nên đã cầu xin: “Nước Cực Lạc tốt đẹp quá, con không muốn quay về, cầu xin Phật A Di Đà đại phát từ bi thu nhận con!”

Đức Phật A Di Đà nói: “Không được, Ta không phải là không muốn đón nhận con, muốn con không đi cũng không được, bởi vì bản thân con vào hai kiếp trước vãng sinh đến quốc thổ Cực Lạc, đã phát nguyện muốn trở lại nhân gian cứu thế độ nhân, cho nên trước mắt con vẫn cần phải trở về để hoàn thành tâm nguyện của con, truyền đạt tình hình của thế giới Cực Lạc cho nhân gian được biết, dùng nó để giáo hóa thế nhân.”

Lúc này, pháp sư Khoan Tịnh vừa nghe vừa cảm thấy toàn thân chấn động, hồi ức lại những cảnh tượng vãng sinh của hai kiếp trước, toàn bộ hiện lên sống động trong đầu não, nhìn thấy rất rõ ràng.

Đức Phật A Di Đà nói với Bồ Tát Quán Thế Âm: “Hãy dẫn cậu ấy đi thăm quan các nơi!” Quán Thế Âm vái Ngài ba vái, rồi Bà đưa pháp sư Khoan Tịnh bước ra khỏi cổng lớn của đài thuyết pháp. Lúc này, những cảnh vật xa gần mà ông nhìn thấy, tất cả cổng lớn, hành lang, bờ ao, lan can, núi và đất, đều là do thất bảo kết thành, đều phát quang lấp lánh giống như những dải đèn màu. Điều kỳ lạ nhất là những thứ tưởng chừng như “hữu hình” này đều trong suốt và có thể đi xuyên qua.

Thân người khó được, hãy biết trân quý

Bồ Tát Quán Thế Âm dẫn ông tham quan những cảnh giới hạ phẩm, trung phẩm và thượng phẩm liên hoa. Pháp sư Khoan Tịnh nhìn thấy liên hoa hạ phẩm nhất có kích thước từ một đến ba dặm vuông, cao ba bốn tầng, tất cả hoa sen đều tỏa sáng. Đối với những người vãng sinh ở đây, nếu họ ở trong hoa sen mà khởi những vọng tưởng, thì màu sắc của hoa sen sẽ ảm đạm vô quang, trái lại, nếu không có vọng tưởng, nội tâm thanh tịnh, thì hoa sen sẽ phát xạ quang huy xán lạn ngoạn mục. Càng lên tầng thứ cao, hoa sen sẽ càng lớn, quang huy cũng càng thù thắng mỹ hảo.

Pháp sư Khoan Tịnh nói, cửu phẩm liên hoa, muốn từ phẩm thấp nhất tu lên phẩm cao nhất, phải mất thời gian 12 năm, lấy đơn vị thời gian của nhân gian mà tính thì là 200 triệu năm, mới có thể thành Phật. Tuy nhiên, nếu chúng ta hạ quyết tâm cần tu khổ hành trong nhân gian, gọi là thế giới Sa Bà, có thể trong thời gian từ 3 đến 5 năm là có thể tu lên trung phẩm hoặc thượng phẩm, hoặc giả trong một đời có thể tu thành đạo. Do đó mới nói, thân người khó được, phải biết trân quý, phải cần cù chịu khó chịu khổ tu hành. 

Bồ Tát Quán Thế Âm dạy rằng, nhân sĩ các giới trên thế gian, bất kể nghèo giàu, quý hèn, thiện ác, trí ngu, nam nữ, già trẻ, nếu chỉ tín Phật niệm Phật, mà cứ lúc nóng lúc lạnh, lúc thì chuyên cần lúc lại lười biếng, thì hoa sen đối ứng của bản thân tại Phật giới tuy có nở, nhưng sẽ không khỏe khoắn mỹ lệ. Còn nếu làm việc xấu, phạm vào 10 điều ác mà chết, thì sẽ đọa nhập vào lục đạo luân hồi, không được vãng sinh tới nước Cực Lạc nữa.

Hai mươi năm sau, vào tháng 4 năm 1987, khi thuyết pháp tại núi Phổ Đà ở Biển Đông của Singapore, pháp sư Khoan Tịnh đã kể lại trải nghiệm của mình, được cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi lại và biên soạn thành cuốn sách truyền thế “Tây Phương Cực Lạc Thế giới Du ký”. Có được chỉ ý của Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, pháp sư Khoan Tịnh mới dám công khai những điều mà ông từng thấy từng nghe trong cảnh giới của Thế giới Cực Lạc.

“Tây Phương Cực Lạc Thế giới” là niềm khao khát của rất nhiều người, đối với mô tả trong cuốn “Tây Phương Cực Lạc Thế giới Du ký” tất nhiên cũng có người tin người không. “Muốn mắt nhìn ngàn dặm, hãy lên một tầng lầu”, đó là câu nói ở phàm giới, nhưng cũng đối ứng với thiên giới. Chính là nói, người tu luyện tại những tầng thứ khác nhau, thì trường năng lượng của sinh mệnh cũng khác nhau, nhãn giới của nguyên thần nhìn thấy cảnh tượng cũng khác nhau. Khi nguyên thần của họ nằm ở những trường thời-không khác nhau, đương nhiên sự cấu thành và năng lượng của vật chất trong trường thời-không cũng khác nhau. Vì vậy, thế giới Cửu phẩm Liên Hoa mà pháp sư Khoan Tịnh nhìn thấy là đứng tại tầng thứ sở tại của ông mà nhìn, người tu luyện các cảnh giới khác nhau thì cảnh tượng triển hiện cũng khác nhau, càng tu lên cao càng thù thắng. 

Trong loạn Pháp mạt thế, việc ôn lại quá trình tu hành nhiều đời của pháp sư Khoan Tịnh và trải nghiệm du hành đến thế giới Tây Phương Cực Lạc của ông một lần nữa cấp cho chúng ta động lực để đánh thức cái chân ngã đang ngủ yên trong mình, tìm đến ý nghĩa chân chính của sinh mệnh. Sinh mệnh con người tại phàm giới không phải từ hư vô mà sinh ra, sinh mệnh đích thực của con người là nguyên thần, đó là món quà được Sáng Thế Chủ ban tặng. 

Quý vị có thể hỏi, chúng ta trải qua đời đời kiếp kiếp trong luân hồi là vì điều gì? Bước trên con đường luân hồi dài đằng đẵng, ở hồi cuối của mạt kiếp, tôn giáo của Đông Tây phương đều dự ngôn rằng Sáng Thế Chủ sẽ hạ thế cứu độ thế nhân. Thời này khắc này, làm sao để có thể nhận ra Ngài và đắc độ trở về Thiên Quốc? 

Theo Epoch Times
Hương Thảo biên dịch