Một thí nghiệm vật lý lượng tử mới chứng minh một ý tưởng khó hiểu trước đây bị giới hạn trong lĩnh vực lý thuyết rằng trong điều kiện phù hợp, hai người có thể quan sát cùng một sự kiện, thấy hai điều khác nhau xảy ra và cả hai đều đúng.
Theo MIT Technology Review, các nhà vật lý từ Đại học Heriot-Watt đã lần đầu tiên chứng minh hai người có thể có trải nghiệm thực tế khác nhau như thế nào bằng cách tái tạo một thí nghiệm tư duy vật lý lượng tử cổ điển.
Thí nghiệm bao gồm hai người quan sát một photon – đơn vị ánh sáng có thể định lượng nhỏ nhất, hoạt động như một hạt hoặc sóng trong các điều kiện khác nhau.
Photon có thể tồn tại ở một trong hai sự sắp xếp, nhưng cho đến thời điểm ai đó thực sự đo nó để xác định đó, photon được cho là tồn tại trong sự chồng chất – cả hai điều kiện đều đúng cùng một lúc.
Trong thí nghiệm, một nhà khoa học lặng lẽ phân tích photon và xác định sự liên kết của nó. Một nhà khoa học khác, không biết về phép đo đầu tiên, có thể xác nhận sự tồn tại của photon này – và do đó, phép đo của nhà khoa học đầu tiên – vẫn tồn tại trong sự chồng chất lượng tử của tất cả các kết quả có thể xảy ra.
Kết quả là, mỗi nhà khoa học trải nghiệm một thực tế khác nhau. Cả hai đều đúng về mặt kỹ thuật, mặc dù họ không đồng ý với nhau.
Đưa ý tưởng này từ thí nghiệm suy nghĩ vào thực tế liên quan đến một thiết lập thí nghiệm với laser, bộ tách chùm tia và một loạt sáu photon được đo bằng nhiều thiết bị khác nhau dành cho hai nhà khoa học.
Các nhà nghiên cứu khác trước đây đã nghĩ ra thiết lập thử nghiệm, theo MIT Tech, nhưng đây là lần đầu tiên thử nghiệm thành công.
Mặc dù nghiên cứu vẫn chưa được xem xét và công bố bởi một tạp chí học thuật, nhưng những phát hiện của nó cho thấy bằng chứng thực sự về việc không có thứ gì tồn tại như một thực tế khách quan, điều mà Phật Thích Ca đã từng giảng từ gần 3000 năm trước.
Sinh thời Đức Phật giảng rằng:
Mọi sự vật mắt người nhìn thấy đều là huyễn tượng, không thật.
Trên thực tế, điều này rất hợp lý. Bởi chúng ta nhìn chiếc bàn, chiếc xe, những tòa nhà… cố định ở đó nhưng dưới kính hiển vi, chúng là tập hợp của các hạt phân tử đang chuyển động phức tạp. Như vậy rõ ràng điều chúng ta nhìn thấy không thực sự như thế.
Trước khi nhập niết bàn, Đức Phật còn giảng:
“Pháp vô định Pháp” và ” Ta đời này chưa có giảng Pháp nào hết”
Ngụ ý rằng, có vô lượng các tầng Pháp khác nhau, mỗi một tầng đều có Pháp, sinh mệnh ở các tầng thứ khác nhau sẽ có nhìn nhận khác nhau về cùng một sự vật, hiện tượng. Ở tầng Như Lai, ông chưa thấy được chân lý tối cao của vũ trụ, vậy nên những hành giả về sau không được xem những lời ông giảng như là một chân lý tuyệt đối, bó hẹp trong cái khung đó mà không thể đột phá lên tầng cao hơn. Tuy nhiên, đáng tiếc những tăng nhân sau này không tu được đến tầng thứ của ông và lý giải không chính xác những lời ông nói.
Phát hiện lần này một lần nữa cho thấy sự uyên thâm của các Giác giả cách đây hàng ngàn năm cũng như tính chân thực của các lời thuyết, các câu chuyện kể trong Kinh thư của Phật gia hay Kinh Thánh của Cơ Đốc Giáo. Con người thật sự quá nhỏ bé, trí tuệ quá hạn hẹp trước vũ trụ to lớn, bao la. Những gì chúng ta không nhìn thấy và chưa kiểm chứng được thì chưa hẳn chúng không tồn tại và có thể đã được phát hiện từ hàng ngàn năm trước bởi các bậc Giác giả có trí huệ vô biên nhờ thành quả tu luyện.
Bàn về mối tương quan giữa khoa học và Phật Giáo, Einstein đã viết :
“Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để đi theo xu hướng của khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”.
Hoài Anh