Chào mừng quý vị đến với Chuyên mục Văn hóa của Đại Kỷ Nguyên

Kính thưa quý vị,  lá rụng về cội  là một tư tưởng văn hóa độc đáo của người Á Đông. Vào thời cổ đại, giao thông bất tiện, rất nhiều người khi đi xa cảm thấy rất khó khăn khi về nhà, nhưng bất luận thế nào, nhất định đến khi tận số thì phải trở về quê hương, an táng tại tổ phần. Dù chết ở nơi tha hương đất khách thì cũng phải nhờ người đưa thi thể trở về quê cha đất tổ, bỏ xác nơi đất khách quê người được coi là điều cực kỳ bất hạnh. Vậy thì, người xưa đã làm cách nào để đưa tử thi từ tha hương trở về nhà?

Trong chương trình hôm nay, chúng ta sẽ nói về Tống thi thuật- Bí ẩn khó giải được ghi lại trong sách cổ.

“Tống thi thuật”, hay còn gọi là thuật cản thi, thuật dẫn xác, luôn là một tư liệu phổ biến trong các bộ phim kinh dị. Đó không phải là vô căn cứ, một nhóm người đã chết có thể di chuyển hàng ngàn dặm dưới sự chỉ huy của một loại pháp thuật kỳ lạ nào đó đủ để phát huy tối đa tâm lý hiếu kỳ của mọi người: Làm thế nào để những người dẫn xác này có thể đột phá giới hạn giữa chuyển động và bất động của sinh và tử? Phải làm gì nếu thây ma đáng sợ xuất hiện giữa các xác chết? Điều gì sẽ xảy ra nếu một người đi bộ vào ban đêm gặp phải người dẫn xác và đội ngũ của họ? Đi đường dài sẽ luôn có người đi lạc, lỡ như có một xác chết đi lạc, nửa đêm đứng giữa đường, lang thang bất lực, cuối cùng sẽ đi về đâu… Tất cả đều khiến người ta rùng rợn.

Vùng núi Tương Tây ở Hồ Nam và các vùng lân cận của Quý Châu hầu hết đều là núi cao, đường xá hiểm trở, giao thông đi lại không thuận tiện, nên Tống thi thuật được lưu hành rất phổ biến thời bấy giờ.

Nguồn gốc của Tống thi thuật

Phong tục cản thi (tức dẫn tử thi trở về) có lịch sử từ lâu đời. Nó có thể bắt nguồn từ Xi Vưu, tổ tiên của người Miêu. Xi Vưu đã dẫn quân chiến đấu với kẻ địch bên bờ sông Hoàng Hà. Khi đó, có rất nhiều thi thể của binh lính trên chiến trường, Xi Vưu không thể nhẫn tâm chịu đựng cảnh đồng bào mình bỏ xác nơi hoang dã, mà muốn đưa toàn bộ tử thi về quê thì nhân lực còn lại không đủ, nên ông đã cầu trợ quân sư quanh mình giúp đỡ. Quân sư Kháp Quyết niệm chú, để Xi Vưu cầm lá bùa dẫn đường, làm phép khiến đám thi thể đứng dậy đi theo Xi Vưu, theo cách đó mà cùng nhau về nhà. Đây là truyền thuyết sớm nhất về “cản thi”.

Cản thi chủ yếu lưu hành vào thời nhà Thanh

Cản thi (hay thuật dẫn xác) ở Quý Châu, Hồ Nam bắt đầu lưu hành rộng rãi từ thời nhà Thanh, trong cuốn tiểu thuyết bút ký “Thanh bại loại sao” do Từ Khắc biên soạn vào cuối thời nhà Thanh, có ghi chép rõ ràng nhất về “Cản thi”. Nhưng trong đó, kỹ thuật này không được gọi là “Cản thi thuật”, mà được gọi là “Tống thi thuật”. Tác phẩm viết: “Thuật thôi miên của người phương Tây chỉ có thể thôi miên người sống, nhưng không thể thôi miên người chết; có thể thôi miên trong nhiều giờ, nhưng không thể thôi miên trong vài tháng. Tuy nhiên, ở vùng Quý Châu, Hồ Nam có Tống thi thuật, có thể khiến tử thi đi theo người dẫn trong vài tháng.”

Chuyện kể rằng có những thương nhân ở Quý Châu mưu sinh bằng nghề đốn hạ và mua bán gỗ. Hàng năm cứ vào đầu mùa xuân, khi nước suối dâng cao, họ lại “đan gỗ thành bè” di chuyển theo sông suối đến Trường Đức, Hồ Nam và những nơi khác, tìm thương khách thích hợp và thương lượng giá cả, được giá liền tháo chiếc bè gỗ ra và bán, sau đó trở về nhà bằng đường bộ. Tuy nhiên sự trời khó đoán, con người là có phúc có họa. Một khi chết ở nơi đất khách quê người thì “đường xa, xác chết không dễ đưa về”. Trong hoàn cảnh như vậy, người Trung Hoa xưa rất tin vào “lá rụng về cội”, thường dùng “Tống thi thuật” để đưa tử thi cùng đồng hành về nhà.

“Tống thi thuật” muốn hữu hiệu “phải được thực hiện bởi hai người”. Một người dẫn đường phía trước, tử thi đi giữa, người kia cầm bát nước trong trên tay đi sau, nước trong bát phải được gia trì phù chú. Trên đường đưa xác, người đi phía sau phải đảm bảo bát nước phải bằng phẳng, “nước không nghiêng, tử thi không đổ”. Không có sự khác biệt giữa tử thi và người bình thường, ngoại trừ việc nó không thể nói được, tất nhiên là khuôn mặt không còn huyết sắc, biểu hiện chậm chạp, ngoài ra nếu nhìn kỹ sẽ thấy dáng đi của nó hơi khác một chút so với một người đang sống. Nó chỉ thuần túy vô thức bước theo hai người dẫn, họ dừng là nó dừng, họ đi là nó đi.

Đến chạng vạng, lúc cần ở lại lữ điếm, chủ quán trọ nhìn ra trạng thái của ba người này, “tức là biết họ là khách tống thi, phải chuẩn bị phòng ở chỗ khác”. Thời điểm đó, những người dẫn xác như vậy là chuyên nghiệp, nên chủ nhà trọ không những quen mà còn dành hẳn một căn phòng riêng cho họ ở. Phòng ở của họ cũng đặc biệt, hai người dẫn xác ngủ trên giường, còn tử thi đứng cạnh cửa, gọi là “tam nhân tụ điếm, lưỡng nhân cật phạn”, tức là ba người ở phòng trọ, hai người ăn cơm.

Đêm trước khi về đến nhà, “tử thi sẽ báo mộng cho người nhà, người nhà sẽ chuẩn bị quan tài chỉnh tề”. Đợi đến khi người dẫn xác về đến nhà cùng với tử thi, tử thi vẫn đứng thẳng bên cạnh quan tài. Người dẫn xác rắc bát nước trong có bùa xuống đất, cái xác đổ xuống ngay lập tức. Lúc này phải chôn cất ngay, “nếu không thi thể sẽ biến đổi, hiện ra hình dạng thối rữa”. Trạng thái thối rữa hoàn toàn phù hợp với thời gian chết, “hễ chết được một tháng thì thi thể sẽ lập tức phân hủy ở trạng thái một tháng”. Vào mùa thu năm Tuyên Thống (1909), Lục An Dương Khoan Phu đang ở Hồ Nam, ông đã tận mắt nhìn thấy nó ở Trường Sa.

Thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, lãnh tụ nông dân Trương Hiến Trung khởi nghĩa, quân Thanh vào Tứ Xuyên dẹp loạn, khiến địa khu Xuyên Du nhân khẩu giảm hẳn, hình thành cảnh tượng tàn khốc ngàn dặm chẳng một bóng người, thế là hoàng đế Khang Hy thực thi chính sách ‘người Hồ Quảng mộ Tứ Xuyên”, chính là nói, cổ động cư dân địa khu Hồ Quảng di dân đến Tứ Xuyên sinh sống. Rất nhiều di dân đến nơi đã không thể trở về cố hương, mà chết nơi đất khách được quan niệm là một sự tình vô cùng thê lương, vì thế mới sinh ra hành nghiệp đặc thù là cản thi tượng, hay thầy dẫn xác. Từ hoàn cảnh địa lý mà xét, xứ Tương Tây cao nguyên Vân Quý núi cao vực sâu, địa thế hiểm trở, xe ngựa khó đi, vận chuyển người đã khuất qua đường bộ trở về Tương Tây là vô cùng khó khăn, chi phí cực cao, mà đi bằng đường thủy thì phải qua đoạn sông Tam Hiệp Trường Giang, nước chảy xiết, rải rác có đá ngầm, thuyền rất dễ bị chìm. Người xưa cho rằng, đặt thi thể trên thuyền là điềm hung bất lợi, vì vậy, so với cản thi là người sống dẫn di thể đi bộ, không cần tới sự trợ giúp của công cụ giao thông như xe ngựa thuyền, có chi phí tương đối thấp, vì thế rất nhiều người Kiềm Tây chọn đưa người thân đã khuất trở về nhà bằng cách này.

Một ghi chép khác về “cản thi” có thể tìm thấy trong cuốn sách “Đồng linh tiểu chí” của Quách Tắc Vân viết vào những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc, trong đó ghi: “Tương kiềm gian hữu am thị thuật giả, nhân tử bất liễm, chiêu thuật giả chú chi tắc năng hành”, tức là có những người ở Hồ Nam và Quý Châu thành thạo loại pháp thuật này, người đã chết, thuật giả vẫy tay niệm chú liền có thể cử động. Ghi chép của Quách Tắc Vân và ghi chép về tống thi thuật trong “Thanh bại loại sao” có chỗ hơi khác. Thầy dẫn xác không phải là mỗi lần chỉ mang một, mà có thể là hai ba, bốn năm thi thể. Thầy dẫn xác đi trước dẫn đường, nếu họ gặp phải người đang tụng kinh hoặc người hát rong, họ trước tiên cần ngăn người kia ngừng tụng kinh hoặc diễn tấu, đợi đến khi thi thể đi qua rồi mới có thể bắt đầu, nếu không, thuật sẽ mất linh, khả năng là thi thể cũng sợ ồn ào, một khi nó kinh động tỉnh lại, sẽ không thể kiểm soát được. Khi họ tá túc ở quán trọ vào ban đêm, tất cả các thi thể đều đứng chỉnh tề phía sau cửa, đứng thẳng không đổ, nhưng nếu người sống không cẩn thận đụng phải, cũng sẽ dẫn đến thi thể biến hủ. Sách ghi, họ đi ban ngày nghỉ ban đêm, có thể đi ngàn dặm. Sau khi về đến nhà cần phải liệm ngay, trì hoãn sẽ thối rữa. Những chủ lữ điếm đã nhìn thấy chuyện này rất nhiều, nên không thấy đáng sợ.

“Ngày đi và đêm dừng”, không đi đường ban đêm

Trong tác phẩm “Thanh bại loại sao” cũng có ghi lại hiện tượng cản thi: Lúc bấy giờ, có một vị quân môn tên là Hoàng Trạch Sinh dẫn quân đến đóng quân bên bờ sông. “Một hôm, bên ngoài doanh trại đột nhiên ồn ào”. Điều gì đã xảy ra với Hoàng Trạch Sinh? Những người lính dưới quyền của ông báo cáo, “Có người giải tử thi đi qua, và thi thể có thể tự di chuyển”. Hoàng Trạch Sinh vào trại xem, chỉ thấy một người cầm cờ vải dẫn trước, “một tử thi đứng thẳng, vô thức bước đi theo người đó”.

Hoàng Trạch Sinh là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, đủ dạn dĩ. Ông bước tới và ra lệnh cho người dẫn xác dừng lại, hỏi anh ta chuyện gì đang xảy ra? Người dẫn xác trả lời rằng nếu bỏ tử thi này vào quan tài rồi chở về nhà thì phiền phức quá. Hoàng Trạch Sinh hỏi cụ thể về chi tiết của câu thần chú, người dẫn xác nói: “Đây là bí mật nghề nghiệp của chúng tôi. Làm sao có thể dễ dàng tiết lộ cho người ngoài được?” Hoàng Trạch Sinh không ép buộc, hỏi rằng mất bao nhiêu ngày để đi được đến đích. Anh ta trả lời rằng sẽ mất bốn hoặc năm ngày; Ông lại hỏi làm thế nào để giải quyết vấn đề chỗ ở vào ban đêm, và người dẫn xác trả lời, “Không sao, có thể đặt nó lại ở cửa”.

Lúc này, ngày càng nhiều người vây quanh xem. “Thời điểm đó trong doanh trại, cả trăm người đều nhìn thấy”. Một số người nhao nhao lên cho rằng đó có thể không phải là thi thể. Hoàng Trạch Sinh lập tức yêu cầu kiểm tra, thì “quả đúng là một tử thi”. Những người dân địa phương sống gần đó đều nói rằng “trường hợp này thường xảy ra, chứ không quá đặc biệt”, dù những người lính đều cảm thấy quái lạ.

Với sự phát triển vượt bậc của xã hội hiện đại, “Tống thi thuật” đã bị đào thải từ lâu, tất nhiên điều này cũng được cho là do sự suy yếu của quan niệm “lá rụng về cội” mà người xưa chú trọng. Xã hội cho đến ngày nay, muốn tìm hiểu về “Tống thi thuật” một cách chân thực, e rằng sẽ càng ngày càng khó!

Theo Sound of Hope,
Hương Thảo biên dịch