Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương Daniel K. Inouye ở Honolulu, Hawaii. 

Hôm 28/7, tờ Nikkei đã đăng bài bình luận của ông có tựa đề: “Việc cải tạo đất của Việt Nam giúp cân bằng quyền lực ở Biển Đông”.

Việt Nam đã giành huy chương bạc trong cuộc thi cải tạo đất ở Biển Đông.

Kể từ đầu năm 2022, Hà Nội đã cải tạo ra 1.438 mẫu Anh, tương đương 5,8 km2, xung quanh quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, nâng tổng diện tích đất mới nước ta đã cải tạo từ quần đảo lên khoảng 2.360 mẫu Anh. 

Giáo sư Vuving nhận định, chắc chắn là cả Việt Nam và Trung Quốc đều không tiên phong trong việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông. 

Bắt đầu từ cuối những năm 1980, Malaysia là nước đầu tiên tiến hành cải tạo đất quy mô lớn xung quanh quần đảo Trường Sa. 

Địa điểm là Swallow Reef, một đảo san hô nằm cách bờ biển Sabah của Malaysia chưa đầy 150 hải lý. 

Việc bổ sung gần 71 mẫu Anh vào diện tích đất ban đầu chỉ hơn 15 mẫu Anh này đã giúp Malaysia xây dựng một sân bay nhỏ, một cơ sở nghỉ dưỡng và một số cơ sở quân sự.

Vì rạn san hô nằm gần bờ biển Malaysia và các hoạt động mà nó hỗ trợ mang tính chất phòng thủ, nên hoạt động cải tạo đất của Malaysia không gây ra bất kỳ cuộc khủng hoảng quốc tế hay bất ổn khu vực nào. 

Rắc rối lớn nhất mà sự việc gây ra là một cuộc phản đối ngoại giao một lần của nước ta, quốc gia cũng tuyên bố chủ quyền đối với rạn san hô.

Trong hai thập niên tiếp theo, các hoạt động mở rộng các rạn san hô mà các bên yêu sách chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa – gồm Malaysia, Philippines, Đài Loan, Việt Nam và Trung Quốc – vẫn ở quy mô nhỏ và khó có thể ảnh hưởng đến cán cân quyền lực chung trong khu vực.

Bắt đầu từ năm 2013, khi chính quyền Trung Quốc biến các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo lớn, hoạt động cải tạo đất trong khu vực đã được nâng lên một tầm cao mới. 

Trong vòng vài năm, Bắc Kinh đã  cải tạo ra 4.650 mẫu Anh ở một quần đảo có tổng diện tích đất trong điều kiện tự nhiên ước tính chưa đến 490 mẫu Anh.

Những nỗ lực này đã đưa ba tiền đồn nhân tạo của Trung Quốc — Đá Vành Khăn, Đá Xu Bi và Đá Chữ Thập — từ một số đảo nhỏ nhất lên thành ba đảo lớn nhất – ở quần đảo Trường Sa. 

Bốn rạn san hô khác mà chính quyền Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa hiện cung cấp cho Bắc Kinh 19 km vuông bề mặt đất trong mọi điều kiện thời tiết.

Trên các đảo nhân tạo này, Bắc Kinh đã xây dựng các đường băng dài, bến cảng nước sâu, kho hỏa tiễn lớn, mái vòm radar lớn và nhiều cơ sở dân sự và quân sự khác có thể chứa hàng nghìn người, hàng trăm tàu ​​thuyền và hàng chục phi cơ phản lực quân sự.

Trước khi xây dựng các đảo nhân tạo này, các cuộc tuần tra xâm phạm của Bắc Kinh tại vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác, và hành vi quấy rối tàu thuyền nước ngoài ở Biển Đông tập trung ở khu vực trung tâm của biển. 

Sau khi xây dựng, Bắc Kinh liên tục có các hoạt động quyết đoán như vậy ở khu vực phía Nam của biển, trong vùng đặc quyền kinh tế của Nam Việt Nam, Đông Malaysia và Tây Philippines.

Các đảo nhân tạo đã giúp Bắc Kinh kiểm soát được vùng nước, bầu trời và đáy biển sâu bên trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước láng giềng. 

Ví dụ, vào năm 2023, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc đã tuần tra trong 338 ngày tại bãi cạn Luconia, nằm cách bờ biển Malaysia từ 70 đến 110 hải lý; 221 ngày tại bãi Tư Chính, khu vực cực nam của EEZ Việt Nam; và 302 ngày tại bãi cạn Cỏ Mây, nằm cách bờ biển Philippines khoảng 100 hải lý.

Chỉ riêng trong hai trường hợp trong giai đoạn 2017-2020, các cuộc tuần tra và quấy rối của lực lượng bảo vệ bờ biển và tàu dân quân Trung Quốc đã buộc Việt Nam phải hủy bỏ các dự án thăm dò hydrocarbon tại khu vực Bãi Tư Chính, và trả 1 tỷ USD tiền phí phá vỡ hợp đồng. 

Gần đây hơn, nhiều tàu đóng tại Đá Vành Khăn gần đó đã giúp Bắc Kinh ngăn chặn nỗ lực của Philippines nhằm tiếp tế cho tiền đồn của mình tại Bãi Cỏ Mây, nơi Manila có quyền sử dụng độc quyền theo luật pháp quốc tế.

Theo Giáo sư Vuving, việc chính quyền Trung Quốc xây dựng đảo trong thập niên qua đã làm đảo lộn sự ổn định của khu vực, và tạo ra một tình hình mới. 

ĐCSTQ đã thực sự biến Biển Đông, một trong những tuyến giao thông đường biển quan trọng nhất thế giới, thành một điểm nghẽn do chế độ này kiểm soát.

Họ cũng biến việc cải tạo đất thành “bình thường mới” và để lại cho các quốc gia khác về cơ bản hai lựa chọn: hoặc là chấp nhận sự kiểm soát của Bắc Kinh hoặc là chơi trò ‘ăn miếng trả miếng’. 

Giáo sư Vuving chỉ ra rằng, trong tình hình mới này, đối với các bên yêu sách khác ở Biển Đông, việc mở rộng các tiền đồn hiện có của mình thông qua việc cải tạo đất có thể sánh ngang với Trung Quốc thường là cách tốt nhất, đôi khi là cách hợp pháp duy nhất để chống lại việc ĐCSTQ tạo ra điểm nghẽn cho mình.

Theo ông, giống như Malaysia, Đài Loan và Philippines ở quần đảo Trường Sa, hoạt động cải tạo đất của Việt Nam trong vài năm qua không gây hại cho ngư dân và thủy thủ hoạt động gần đó.

Từ quan điểm địa chính trị, Việt Nam có tiềm năng khắc phục phần nào sự mất cân bằng quyền lực ở Biển Đông. 

Trong khi hoạt động xây dựng đảo của Bắc Kinh đã làm suy yếu đáng kể các biện pháp kiểm tra và cân bằng quan trọng để duy trì quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, hoạt động cải tạo đất của Việt Nam mang lại hy vọng khôi phục lại các cân bằng này.