Phóng sự của Khải Nguyên về một người phụ nữ ở Thái Nguyên bao năm nhai cơm nuôi chồng không ca thán lấy một lời, để viết thêm vào “bộ biên niên sử” về đức tính của người phụ nữ Việt Nam.
Ngày tôi còn ở quê, một vùng đất heo hút toàn đá núi phía Cực Bắc của tổ quốc, rừng núi nơi này có một loài chim hết sức lạ. Chim có lông một mầu xanh biếc, không biết tên khoa học gọi là loài chim gì. Loài chim này có một cái lạ là khi con đực và con cái đến lúc trưởng thành, kết giao với nhau, làm tổ và đẻ trứng, con cái ấp, con đực đi kiếm mồi nuôi con cái và những quả trứng bé nhỏ hồng hào của mình.
Thế nhưng rất lạ, lúc lứa con đầu tiên đạp vỏ chui ra thì cũng là lúc con đực của loài chim này sẽ không bay được nữa. Thế là con cái phải “đội trên đầu” hai trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con. Mỗi khi đi kiếm mồi, nó cứ rạc dài cất lên tiếng kêu than: Khủ ui… khủ… u…i! Nghe tiếng kêu các cụ già đọc chệch ra là “khổ ơi”. Đối diện với hoàn cảnh của bà, tôi thấy bà giống như loài chim kia, chỉ có cái khác là bà không bao giờ cất lên tiếng kêu than với thân phận mình. Một năm có 365 ngày, đã bao giờ bà ngồi tính được, bà đã nhai cơm bền bỉ bao nhiêu lần, bao nhiêu năm?
Phận và… phúc: Hành trình viết thêm vào “biên niên sử” đức tính của phụ nữ Việt Nam
Từ ngày thành phố Thái Nguyên có khu công nghiệp gang thép, người Miền Bắc hay gọi đất này bằng cái tên đầy trìu mến: “Thành phố Thép”. Và từ ấy đến nay nơi đây có một người phụ nữ chăm chồng đầy quả cảm như loài chim khủ ư nơi miền quê đá của tôi. Tôi biết được bà qua câu chuyện trên chuyến xe khách. Thời gian tất bật, để bụng mãi, lần này tôi mới có dịp quay lại “đất thép” để tìm bà.
Hành trình để tìm người phụ nữ đầy quả cảm, đầy thuỷ chung, vượt khó không ca thán lấy một lời, để viết thêm vào “bộ biên niên sử” về đức tính của người phụ nữ Việt Nam này quả không dễ. Một phần bà ở nơi quá xa xôi với thành phố, phần nữa bà lại cam chịu quá, không nửa lời ca thán cùng láng giềng về hoàn cảnh của mình nên ít ai biết đến bà. Một người phụ nữ hoàn cảnh, trong một hoàn cảnh đầy éo le của mình.
Tìm tòi, gặng hỏi lên xuống tôi mới về được đến Thị trấn Ba Hàng. Lúc tôi tìm đến, trời đã quá chiều, bà đang trệu trạo nhai và mớm những thìa cơm cho bữa ăn thứ 4 trong ngày của người chồng đã bước vào tuổi cổ lai hy đang nằm liệt giường của mình. Con cái đều đi làm xa, nhà hoàn cảnh, nhìn cảnh tượng ấy tôi không thể không rớt nước mắt. Một khung cảnh thật hạnh phúc nhưng cũng đầy đa đoan của hai ông bà già.
Đã 24 năm tôi toàn nhai cơm cho ông ấy…
Vừa nhai, vừa khéo léo bón từng thìa cơm cho chồng, bà Nguyễn Thị Lợi (Xóm 4, thị trấn Ba Hàng, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) vừa tâm sự: Đã 24 năm nay tôi toàn nhai cơm và bón cho ông ấy. Ông ấy không ăn được gì chỉ ngoài thứ cơm mà tôi nhai và bón hàng ngày cho ông ấy. Cứ đều chằn chặn, Đông cũng như Hạ, ngày cũng như đêm, mưa giông cũng như nắng lửa tôi đều phải 5 lần đỏ lửa để nấu cơm nóng mà nhai cho ông ấy. 24 năm, 8.765 ngày, 121.825 lần nấu, nhai và bón cơm cho chồng, một công việc, một sự chung thuỷ đến tôn thờ đã dễ mấy ai có được, mà lại rơi vào cái hoàn cảnh như của bà.
Gạt thầm giọt nước mắt bà bảo: Tôi với ông ấy phận mà như phúc. Phận là tôi và ông ấy đã gặp nhau, phận là tại sao tai hoạ bệnh tật lại tìm đến ông ấy. Còn phúc thì nhiều lắm, phúc lớn nhất là có phận thì tôi mới được chăm ông ấy, một người mà bà kén chọn duy nhất làm chồng. Để gánh lấy số phận, để chia sẻ chăm sóc nhau, để mà người đời nhìn thấy phải nể trọng.
Chồng bà, thiếu tá Phan Văn Phàn, thương binh loại A, hạng 4, ông yêu và kết duyên với bà từ ngày bà còn trẻ lắm. Thời ấy yêu đương chỉ dám nắm tay nhau thôi, cưới về bà vẫn còn ngủ chung với mẹ chồng vì xấu hổ. Vợ chồng chưa một đêm nằm trọn với nhau thì ông ấy nhập ngũ, chỉ để lại cho vợ cái cười lúc lên xe cùng chúng bạn, rồi đi biền biệt.
Sau 4 năm biền biệt ra đi bà có dịp may mắn được gặp chồng, ấy là khi ông bị thương khi đang thi công tuyến đường 559 ở địa phận Atôpưi trên đất bạn Lào. Hầm ông bị trúng bom, hy sinh hết cả, chỉ mình ông may mắn còn sống sót nhưng bị thương nặng. Ông được chuyển ra Thanh Hoá điều trị, thông tin ra, nghe tin xấu bà quẩy quả vào tìm chồng. Ngày ấy đường sá xe cộ hiếm hoi, lúc nào có xe thì đi còn không thì bà lại đi bộ. Cả tuần trời quẩy quả bà mới gặp chồng. Ở lại cùng bác sỹ chăm sóc chồng, đây là lần bà được gần gũi chồng nhất. Ông lành vết thương lại vào tiếp chiến trường còn bà quay ra đất Bắc. Lần gặp gỡ này, năm 1970 bà sinh con trai cả đầu tiên, ông đặt tên là Phan Văn Dũng, với chủ ý vào chiến trường đàn ông phải dũng cảm còn ở quê nhà người vợ chờ chồng cũng phải dũng cảm không kém.
5 năm sau, một mình nuôi con, chăm sóc bố mẹ chồng, chiến tranh kết thúc, chẳng có gì ngoài chiếc ba lô và bộ quần áo xanh quân ngũ bạc mầu. Bà hồ hởi đón nhận ông. Cơ nhọc với đồng lương chế độ ba cọc ba đồng của hai vợ chồng, bà vun vén lo toan hạnh phúc, không trách cứ chồng về cách làm ăn vì chồng bà đã quen cầm súng rồi. Năm 1977 bà sinh thêm một con trai nữa, ông đặt tên là Phan Văn Chuyên, chủ ý là trong lúc khó khăn bà phải chuyên cần.
Hạnh phúc ngắn ngủi chỉ có được cho bà sau 10 năm khi ông ở chiến trường ra. Tưởng yên ổn, nào ngờ, năm 1985, đúng mồng Ba tết, đang vui vẻ xuân mới thì ông đột quỵ. Tưởng sẽ lành nào ngờ ông phải nằm liệt giường, với căn bệnh Viêm tuỷ leo. Thân thể mềm nhũn, mồm miệng cũng mềm hết, không thể tự nhai cơm được. Thế là bà lại phải đối diện cùng thử thách, nấu cơm mớm và bón cho chồng, đấy là còn chưa kể đến việc kiếm sống nuôi 5 con người, trong đó trụ cột chính là người chồng đã không thể làm gì được nữa.
Đoạn trường gắng mãi
Bà bảo, ngày ông đổ bệnh, đất nước vừa mới chập chờn bước ra khỏi kỳ bao cấp. Cuộc sống của người lành lặn còn khổ chứ huống hồ gia đình bà, cơ cực hết chỗ nói. Từ đây, bà đành gánh trên vai hai chức phận, vừa là chồng vừa là cha, vừa dậy dỗ con cái, kiếm sống cho cả gia đình và nuôi cả người chồng bệnh tật của mình nữa.
Từ ngày ông đổ bệnh, mọi thứ đều không chủ động được, đều nằm đấy mà nhờ cậy bà cả. Cũng may, ông đã có một người vợ, một kho tài sản quý như bà. Bà Lợi cho biết, vì ông bệnh tật, ngoài việc chỉ ăn được thứ cơm do bà nhai mớm thì ông phải ăn đến 5 bữa trong ngày. Nằm một chỗ, ăn nhiều không tiêu hoá được lại dễ sinh bệnh. Cũng vì việc ông chỉ ăn được thứ cơm do bà nhai nên hơn 20 năm nay bà không thể bước chân ra khỏi nhà. Chỉ dám quanh quẩn ở cái thị trấn lẻ, mua bán vài thứ rồi lại quẩy quả để về chăm sóc chồng ngay.
Bà bảo ngày ông bị bệnh, lương tháng 2 vợ chồng có tất thẩy 600 nghìn. Vừa cơm cháo, vừa thuốc men cho chồng lại cả tiền ăn và tiền học của 3 đứa con nữa. Nhiều lúc cảm thấy bất lực, không thể sống được nữa. Thế nhưng mỗi khi nhìn thấy chồng bị bạo bệnh nằm đó bà lại nhủ: Phải sống, phải sống vậy thôi.
Để sống bà phải thâu đêm suốt sáng làm đủ nghề lương thiện để kiếm sống. Nấu rượu, nuôi lợn, làm ruộng và bán nước, bà làm hết. Làm đến quên ăn quên ngủ để nuôi gia đình và phụng dưỡng người chồng của mình.
Ông Trời không cho ai tất cả?
Người ta bảo, ông trời không cho mọi người tất cả có lẽ đúng. Ông Trời đã không cho bà thanh thản, không cho người chồng của bà mạnh khoẻ thì lại cho bà những đứa con. Trước hoàn cảnh của bà, ai cũng thầm khen và không ai hiểu được mình sẽ có một kết cục thế nào được nữa. Thế mà bà vẫn sống, chăm chồng, nuôi con ăn học bằng những việc làm hết sức lương thiện của mình. 3 người con của bà, người thứ nhất đã có gia đình đang mở cửa hàng buôn bán gần nhà, hai người tiếp theo bà đều cho học được hết đại học. Người nào cũng có công ăn việc làm và đã đỡ đần được mẹ để chăm sóc bố.
Gặp bà, tôi chỉ có vài dòng này ghi lại và tạm biệt bà cùng cái thị trấn Ba Hàng bụi bặm. Một hoàn cảnh như vậy, nay đã tuổi già sức yếu, đã bước vào cái năm thứ 24 của quãng đời một ngày 5 lần đỏ lửa nấu cơm và nhai bón cho chồng mà bà vẫn không ca thán một điều gì.
Tôi nghĩ, sự im lặng, cam chịu và kiếm tìm hạnh phúc từ một hoàn cảnh hết sức trớ trêu của bà đang chắp thêm cho những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Và trong trang sách này bà có lẽ là một trong những trang sống động nhất.
Khải Nguyên
Xem thêm: