Đại Kỷ Nguyên

Cảm ngộ Tây du: Bồ Tát vì sao không độ nhà sư, mà độ yêu quái?

Một thời gian trước, khi đọc được tin vị sư trụ trì chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc khoe chiếc áo cà sa thêu chỉ vàng trị giá 25.000 USD (gần 600 triệu Việt Nam đồng), tôi không khỏi cảm thán khi nghĩ về đức Phật Thích Ca thuở xưa đã từ bỏ vương vị và phú quý để chịu khổ tu hành. Biết bao đệ tử chân tu của đức Phật đã xả bỏ truy cầu hưởng thụ vật chất thế gian, một y một bát vân du vạn dặm. Nhưng cũng có một số kẻ hoàn toàn ngược lại – Ví như câu chuyện bi hài của sư trụ trì Quan Âm Thiền Viện trong “Tây du ký”, một cuốn sách chứa đầy đạo lý tu luyện.

Câu chuyện “Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối; Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa” diễn ra ngay sau khi Đường Tăng và Tôn Ngộ Không thu phục được Bạch Long Mã. Phong cảnh thiền viện “muôn lớp mây lành”, “nghìn tia khí đẹp”, lại có vị sư tổ trụ trì mộ đạo sống lâu, thầy trò Đường Tăng không sao ngờ trước được rằng tính mạng của mình đang bị đe doạ. Và cũng chính trong câu chuyện ngược đời khó tin này, chúng ta được chứng kiến một kẻ niệm Phật hai trăm năm có lẻ chết một cách bi thảm và ngu si; trong khi một con yêu quái hình dung kỳ dị lại được Bồ Tát độ về nơi tịnh thổ.

Chiếc áo cà sa: Đâu mới là mầm tai hoạ?

“Tây du ký”, hồi thứ 16 kể rằng khi thầy trò Đường Tăng vào trong phương trượng dùng trà, vị sư già 270 tuổi ra tiếp kiến và ngỏ lời hỏi thăm xem hai thầy trò từ phương Đông có bảo bối gì không. Tôn Ngộ Không nhanh nhảu nói có áo cà sa, thế là các nhà sư bật cười, nói:

“Áo cà sa ấy, chúng tôi đây cũng có hai ba mươi chiếc. Còn như sư tổ chúng tôi làm hòa thượng ở đây hai trăm sáu mươi năm, dễ có tới bảy tám trăm chiếc.”

Đoạn, họ chăng dây mắc áo khắp nhà, thấy toàn là gấm vóc lụa là, thêu hoa dát ngọc cả. Tôn Ngộ Không hiếu thắng, mới đem chiếc áo cà sa báu mà Quán Âm Bồ Tát ban cho họ xem, khiến các nhà sư tấm tắc khen thầm, khiến vị sư già manh tâm chiếm đoạt.

“Tây du ký”, hồi 16 có viết:

“Lại nói chuyện nhà sư già kia lừa hai thầy trò Tam Tạng cầm được áo cà sa trong tay, mang về phòng sau nhìn tấm áo khóc gào đau khổ, làm các sư trong chùa sợ hãi, không dám đi ngủ trước. Bọn tiểu đồng cũng chẳng hiểu vì sao, vội chạy đi báo với các sư rằng:

– Sư tổ khóc mãi đến canh hai vẫn chưa thôi.

Hai đồ đệ được nhà sư già ấy yêu quý nhất bước vào hỏi:

– Thưa sư tổ, vì sao ngài lại khóc? Nhà sư già nói:

– Ta khóc vì ta vô duyên, không nhìn được bảo bối của Đường Tăng.

Hai nhà sư trẻ nói:

– Tổ sư tuổi cao đức trọng. Tấm áo cà sa của họ đã đặt trước mặt, ngài cứ việc giở ra mà xem, việc gì phải khóc.

Nhà sư già nói:

– Nhưng xem không được lâu. Năm nay ta đã hai trăm bảy mươi tuổi, mặc qua hàng trăm tấm áo cà sa nhưng đâu được như tấm áo cà sa này, đâu được làm Đường Tăng!

Nhà sư trẻ nói:

– Sư phụ nói sai rồi. Đường Tăng chỉ là một nhà sư lang thang bỏ quê bỏ quán. Ngài tuổi cao hưởng phúc nhiều là tốt lắm rồi, lại còn muốn làm một nhà sư lang thang làm gì?

Nhà sư già nói:

– Ta tuy tại gia thảnh thơi, vãn cảnh vui thú nhưng chẳng được mặc tấm áo ấy. Giá mà ta chỉ được mặc một ngày thôi, thì

chết cũng thỏa, cũng đáng đi tu ở thế gian này.”

Thái độ của sư già thoạt nghe quá nực cười: vì một chiếc áo cà sa thôi mà cũng khóc gào đau khổ! Lại còn nói giá chỉ được mặc một ngày thì chết cũng thoả, cũng đáng đi tu ở thế gian này. Cứ như thể hơn 200 năm tu hành là vô nghĩa cả, chỉ có áo cà sa này mới là đáng giá. Chưa nói đến việc ông ta đã có tới bảy tám trăm chiếc áo cà sa.

Cà sa, phiên âm tiếng Phạn là Kasaya, vốn không có nghĩa là quần áo hay y phục, mà là khái niệm chỉ sự bạc màu, đơn điệu, chỉ những vật đã cũ kỹ hư nát. Vậy nên, áo cà sa có ý chỉ thứ y phục đơn giản đến vô cùng, không màu mè, khoe mẽ, cốt chỉ để che thân. Xưa kia, các nhà sư đi khất thực (xin ăn), nhận bố thí, ăn mặc kham khổ để thể hiện tâm cầu đạo và khiêm nhường. Tương truyền rằng các nhà sư phải đi nhặt từng mảnh vải vụn, từng tấm khăn rồi đem về tự nhuộm màu, chắp vá lại để làm thành tấm vải lớn khoác lên, chính là tấm áo cà sa. Vậy mà nay, vị sư già lại tích góp vô hạn độ các loại cà sa thêu ngọc dát ngà, vì một chiếc áo cà sa mà phóng hoả giết người. Đó chẳng phải là tu lầm đường, lạc vào ma đạo sao?

Trong hiện thực, tấm áo cà sa của Đường Tăng khiến sư già loá mắt phải chăng là ẩn dụ cho những vật ngoài thân, như tiền bạc, địa vị, danh tiếng, nhà cửa ruộng vườn, vợ chồng con cái… mà con người, bao gồm cả nhiều người tu, vẫn đang chấp trước vào? Vốn chỉ cần một tấm vải che thân bạc màu cũ kỹ là đủ để hành tẩu thế gian, cũng như vốn chỉ cần cháo rau đạm bạc là đủ nuôi thân hành đạo, thế nhưng người ta lại vì danh-lợi-tình mê hoặc mà bôn ba vất vả cả đời người, truy cầu vô hạn độ, có ít muốn có nhiều, có nhiều muốn có nhiều hơn nữa, thậm chí hãm hại người khác để tranh giành lợi ích. 

Ví như Cao Nha Nội trong “Thuỷ Hử”, vốn là cậu ấm của thái uý Cao Cầu, vinh hoa phú quý mỹ nữ đều không thiếu, thế nhưng không nén được lòng dục cứ nhất định phải chiếm đoạt bằng được vợ Lâm Xung. Cao Nha Nội tơ tưởng mỹ sắc mà sinh bệnh, bọn thuộc hạ vì nịnh chủ, Cao Thái uý vì thương con mà bày độc kế, phá nát gia đình người ta, hại Lâm nương tử liều mình tuẫn tiết.

Bi kịch của Cao Nha Nội là bi kịch của kẻ không khống chế được dục vọng của mình. Bi kịch của lão sư già ở Quan Âm viện cũng là như thế. Sư già “nhìn tấm áo khóc gào đau khổ”, đây có lẽ không phải là giả vờ cho người khác xem, mà là biểu hiện chân thực của nỗi đau khổ trong tâm do bị dục vọng dày xé. Tu luyện chính là phải trải qua quá trình đau đớn dứt bỏ tâm phàm như thế, cũng là quá trình hàng phục ma tính, bồi đắp Phật tính. Nhưng vị sư già mấy trăm năm tu luyện mà không chịu bỏ chấp trước, khiến nó mỗi ngày một phình to, khác gì nuôi dưỡng ma quỷ trong tâm. Trách sao làm trụ trì chùa Quan Âm mà chẳng được Quán Âm hoá độ! 

“Thương thay sư cụ ngu đần, 
Một đời tu luyện mất danh sư già! 
Rắp tâm định cướp cà sa,
Ai ngờ của Phật khác xa đồ phàm.
Tưởng đâu mưu kế dễ dàng,
Ai ngờ cháy sạch mấy gian chùa rồi.
Quảng Mưu, Quảng Trí nực cười, 
Đáng đời một lũ hại người ích ta.”

Quả đúng là “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Tình tiết Tôn Ngộ Không gõ chuông loạn xị, nói “Tôi làm hòa thượng một ngày thì phải gõ chuông một ngày chứ!” phải chăng là lời châm biếm cho những kẻ tu hành trên hình thức, coi gõ mõ tụng kinh như công việc lĩnh lương? “Tu” kiểu ấy thì đừng nói 200 năm, dẫu có “tu” cả 2000 năm cũng không được Phật độ.

Vì sao Bồ Tát độ yêu quái Hùng Bi?

Hình ảnh tương phản với lão sư già là yêu tinh gấu Hùng Bi. Ngoại trừ hình dạng yêu quái xấu xí và hành động cuỗm áo cà sa ra, con yêu quái này có những đặc điểm không “yêu quái” một chút nào cả.

Thứ nhất, Hùng Bi lòng dạ không đến nỗi độc ác. Hắn dường như là yêu quái duy nhất trên hành trình “Tây du ký” không rắp tâm ăn thịt Đường Tăng. Khi chùa Quan Âm bị cháy, hắn từ xa vội vàng tới cứu, hô hoán mang nước đàng hoàng.

Thứ hai, Hùng Bi có tâm mộ đạo. Hắn ngày thường qua lại với sư trụ trì để đàm kinh giảng đạo; khi Ngộ Không bắt gặp hắn tụ họp với hai yêu quái trong rừng thì đang nói cũng toàn chuyện bắc vạc đắp lò, luyện linh đơn theo lối tiên thuật cả. Đặc biệt, trong “Tây du ký”, động phủ của yêu quái thường là nơi rừng thiêng nước độc, yêu khí nặng nề, nhưng riêng nơi ở của yêu quái Hùng Bi thì tới 4 lần hiện lên dưới con mắt của Tôn Ngộ Không và Quán Âm Bồ Tát, lần nào cũng là phong cảnh thần tiên thoát tục cả. Ví dụ:

“Hành Giả đến cửa đằng trước, thấy xung quanh tùng trắc tươi tốt, đào mận xanh rờn, từng khóm hoa nở thoang thoảng hương đưa. Đúng là một nơi tiên cảnh. Lại thấy hai cánh cửa có đôi câu đối:

Yên tĩnh rừng sâu không tục lụy
Thanh u tiên động hưởng thiên chân.

Hành Giả thầm nghĩ:

– Tên này cũng là yêu quái vào hạng thoát tục hiểu đời đây.”

Ngay cả dưới con mắt tuệ nhãn của Bồ Tát, ấy cũng là một nơi thanh tịnh.

“Vách cao động thẳm, Đỉnh non mây vờn. Tùng bách tươi tốt, Gió thổi xuyên non.
Vách cao động thẳm, yêu quái vào ra người chẳng thấy: 
Tùng bách tươi tốt, chân tiên ẩn dật, đúng nơi đây! 
Núi có khe sâu, thành suối chảy,
Nước rơi réo rắt tựa đàn ca. 
Vách có hươu nai, rừng có hạc,
Sáo trời vi vút thỏa lòng ta.

Thực là:

Yêu tinh có phúc hàng Bồ tát, 
Bồ tát từ bi cũng cứu ra.

Bồ tát ngắm cảnh, trong lòng mừng thầm nghĩ:

– Yêu quái chiếm động núi này cũng có chút sùng đạo đây.”

Người xưa nói “Cảnh tuỳ tâm sinh”. Tác giả Ngô Thừa Ân dụng tâm miêu tả nơi ở của yêu tinh Gấu tới 4 lần, phải chăng đang muốn “vẽ mây tả trăng”, nói lên rằng trong hình hài yêu quái kia phần thiện căn vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn?

Lại nói Tôn Ngộ Không trước khi quy y cũng chỉ là một con “yêu hầu” hung càn làm loạn; Bát Giới trước khi được Bồ Tát khuyến thiện cũng làm yêu quái ăn thịt người ở núi Phúc Lăng; Sa Tăng trước khi thụ giới cũng là yêu quái ở sông Lưu Sa, xâu đầu lâu người làm vòng đeo cổ. Thế nhưng tất cả bọn họ đều xuất tâm hướng Thiện, nguyện bảo hộ Đường Tăng đi lấy kinh, cuối cùng tu thành chính quả. Yêu quái Hùng Bi sẵn có lòng mộ đạo, nay được Quán Âm Bồ Tát từ bi cứu độ, thiết nghĩ cũng cùng một đạo lý mà thôi.

Giữa hồng trần cuồn cuộn, trong biển khổ mênh mang này, ai mới được Phật độ? Thần Phật không nhìn vào quan cao lộc hậu – nếu không thì quốc vương nước Ô Kê đã không bị Trời phạt ba năm thuỷ tai; Thần Phật cũng không nhìn xem bạn tụng kinh niệm Phật được bao nhiêu – nếu không thì vị sư già tu đã 260 năm kia ắt phải về Tịnh độ sớm nhất. Thần Phật chỉ nhìn nhân tâm. Chỉ cần có một cái tâm hướng Thiện, cái tâm thuần khiết dành cho tu luyện mà thôi!

Như lời Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ngộ Không, Bồ tát, yêu tinh đều là ý niệm cả. Nếu bàn cho đến gốc, thảy đều không có.” Chỉ một niệm sai khác, kết quả khác nhau trời vực. Khuê Tinh vốn là thiên thần trên thượng giới, động một niệm phàm tục mà rớt xuống làm yêu quái Hoàng Bào. Tôn Ngộ Không – tâm viên – một cân đẩu vân là bay tới Linh Sơn, phải chăng cũng là nói chỉ một tâm niệm lành là thấy được Phật quốc?

Có lẽ bởi thế trong đời thực, ta mới thấy bao nhiêu người xuất thân là dân “anh chị”, nghiện ngập, trác táng… cuối cùng lại có thể đắc được Đại Pháp vạn cổ khó tìm, trở thành những người tu luyện chân chính. Từ bi của Phật là hồng đại, Ngài không nhớ kể đến quá khứ tội lỗi của chúng ta, chỉ xem chúng ta có thật lòng tu tâm hướng Thiện không mà thôi!

Quả đúng là:

Tiếu khán thiên niên sự,
Mộng lý cố nhân si.
Vạn cổ tầm Đại Đạo,
Kim triêu chứng quy kỳ.

(Kim triêu chứng quy kỳ)

Tạm dịch:

Ngàn năm chốn trần thế,
Mộng thấy cố nhân mê.
Vạn cổ tìm Đại Đạo,
Hôm nay thấy ngày về.

(Hôm nay thấy ngày về – Vườn thơ Chánh Kiến)

Thanh Ngọc

Chú thích:

>> Xem trọn bộ Giải mã Tây Du Ký

Exit mobile version