Đại Kỷ Nguyên

Cảnh giới nhân sinh: Tuổi trẻ đọc Lý Bạch, trung niên đọc Đỗ Phủ, tuổi già đọc Tô Thức

Có người nói: Cuộc đời như quán trọ trần gian. Hết thảy mọi thứ trong đời chợt đến rồi chợt đi, không có gì là lâu bền vĩnh cửu. Trời đất có xuân hạ thu đông, đường đời có sinh có lão, có bình minh và cũng có xế chiều.

Con người ta, tuổi thanh xuân tưng bừng nhiệt huyết, sôi nổi hào hùng, mang theo một chút ngạo nghễ, một chút ngông nghênh. Giống như Lý Bạch đã từng viết trong “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”:

Sao cứ phải khom lưng cụp mắt thờ quyền quý,
Khiến ta chẳng thể vui vẻ nở mặt mày.

Nhưng đến một độ tuổi nào đó, cái ngông cuồng ngạo mạn kia sẽ được thay thế bằng sự chiêm nghiệm, quay trở về với khoảng trời trầm tư tĩnh tại.

Nói đơn giản hơn, chính khí của con người là một loại sức mạnh, cũng là một loại cảnh giới: tuổi tráng niên thì hào sảng mạnh mẽ, tuổi trung niên thì thâm trầm kín đáo, tuổi lão niên lại sâu sắc và đầy triết lý. Ba nhân vật đại biểu cho hai thể thơ cổ “Đường thi – Tống từ” là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức có thể giúp ta nhìn ra ba cảnh giới lớn của đời người.

Tuổi trẻ đọc Lý Bạch

Nếu muốn tìm một cái tên đại diện cho phong thái Đại Đường thì còn ai xứng đáng hơn Lý Bạch? Hết thảy khí chất của Đại Đường thịnh thế đều kết tinh trong thi ca Lý Bạch. Sự tài hoa vô song của ông tới nghìn năm sau vẫn ảnh hưởng đến hàng vạn văn nhân hậu thế.

Dám hỏi phong thái của Lý Bạch là gì? Chỉ cần dăm ba từ là có thể nói lên tất cả, chính là: Thiếu niên dân quốc mãi mãi. Chàng thiếu niên dân quốc lúc bấy giờ không chỉ biết ẩm tửu, múa kiếm, xướng ca, làm thơ, mà còn là kẻ sĩ tiên phong vân du khắp góc biển chân trời.

Ông là một hiệp khách được biết đến là: “Việc xong rũ áo ra đi / Xoá nhòa thân thế, kể gì tiếng tăm”. Ông không phải là đại hiệp theo nghĩa truyền thống, không làm ra vẻ trịnh trọng như Quách Tĩnh, khảng khái diễn thuyết trong đại hội anh hùng Tương Dương. Ông là chàng thiếu niên giống như Lục Tiểu Phụng, Sở Lưu Hương, Mạnh Tinh Hồn, sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, nhưng xong việc lại giũ áo ra đi, công danh giấu kín.

Ông là vị tiên thơ yêu rượu như mệnh: “Thiên tử gọi ta không lên thuyền / Tự xưng thần là Tiên trong rượu”. Dẫu hoàng đế đích thân đến gọi ông vẫn không chịu rời đi, bởi khi say túy lúy ông đâu cần biết ai là quý nhân ai phường áo vải? Cho nên ông rất thích Hạ Tri Chương, một phần vì rượu ngon, và một phần vì phong thái “cuồng khách” hợp với mình.

Lý Bạch hào phóng đãi bạn, vì mời khách mà phải tiêu tốn vạn kim tiền ông cũng bật cười sảng khoái. Có lúc ông sẵn sàng mang cả gia tài trên thân ra để đổi lấy rượu ngon:

Đây ngựa gấm,
Đây áo cừu,
Này con, đổi rượu hết,
Cùng nhau ta giết cái sầu nghìn thu!

Ông là bậc tài hoa tuyệt đỉnh nhưng không bao giờ chịu luồn cúi trước cường quyền. Cao Lực Sĩ có uy thế trong triều, nhưng vẫn phải miễn cưỡng cởi đôi giày ra khỏi chân mình mà đưa cho Lý Bạch. Dương Quý Phi được hoàng thượng sủng ái, nhưng vẫn phải hạ mình mà dâng nghiên mực lên cho ông. Quả đúng là một phong thái ngạo nghễ ngẩng cao đầu: “Sao có thể khom lưng cụp mắt thờ quyền quý / Khiến ta chẳng thể vui vẻ nở mặt mày”.

Văn thơ của ông rất ương ngạnh: “Bút hạ kinh phong vũ, thành thơ khóc quỷ thần”. Đỗ Phủ đặc biệt sùng bái ông, thường viết thơ ca ngợi Lý Bạch. Sau khi ly biệt Đỗ Phủ vẫn thường mơ thấy ông, tin rằng Lý Bạch là đại bàng tung cánh giữa từng không, một ngày nào đó sẽ cưỡi gió mà bay lên trời xanh.

Lý Trạch Hậu từng nói về Lý Bạch rằng: “Một phong độ hào sảng ngang ngạnh xông pha, thậm chí có chút khí phách vô lại, tung hoành trên trang giấy…”.

Và đó chính là Lý Bạch: Lúc đắc ý thì ngạo nghễ hào sảng, lúc thất ý thì cũng không nản lòng. Dẫu hiểm nguy rập rình tứ phía, ông vẫn ung dung ngang dọc khắp bốn biển chân trời. Ở tuổi thiếu niên anh tuấn hay là lúc tuổi đã xế chiều, ông vẫn mãi là anh hùng đắc chí trong thời đại huy hoàng, là cuồng khách rượu say có phong thái ung dung tự tại. Đối với danh lợi kim tiền ông hề không đoái hoài đến, mà chỉ truy cầu việc thể hiện cá tính bản thân. Tuy trải qua nhiều lần vinh nhục, ông vẫn ngạo nghễ trên con đường thơ ca với cảm giác tự hào.

Nhưng trên thế giới này chỉ có một Lý Bạch, sẽ chẳng có người thứ hai giống như ông: từ đầu đến cuối luôn bảo trì độ xuân xanh thuần khiết, trẻ mãi không già. Vậy thì với người yêu thơ, đến một lúc nào đó sẽ muốn tìm về một nơi có phong vận, ít nhiều phảng phất khí thái của tuổi trung niên. Đến lúc này sẽ là một nhân vật mới… Và vì thế, Đỗ Phủ xuất hiện.

Tranh vẽ “Lực Sĩ cởi giày, Quý phi mài mực” thời Thanh.

Trung niên đọc Đỗ Phủ

So với độ bay bổng hào phóng và tuổi trẻ khinh cuồng của Lý Bạch thì Đỗ Phủ thâm trầm và ổn định hơn nhiều.

Nếu Đỗ Phủ sống ở thời nay, chúng ta có lẽ không coi ông như Thánh nhân, sẽ nhận ra rằng ông cũng là một người bình thường bình dị giữa chúng ta. Thậm chí nhiều lúc ông không còn là nhà thơ lớn mà chỉ là một ông lão nghèo khổ đang ly biệt quê hương.

Ông không cần lời lẽ khoa trương, chỉ dăm ba câu đạm bạc nhưng lại thể hiện ra sự ổn định mà người bình thường khó có thể đạt được.

Đỗ Phủ có câu: Thơ là chuyện nhà của ta, còn theo Nho học làm quan là truyền thống của Đỗ gia, là tiếp tục sự nghiệp của các bề tôi trước đó. Trọng điểm của những điều ông học là “tu văn”. Ông nội ông là Đỗ Thẩm giỏi thuyết nói, nổi danh ở thi đàn, là tấm gương mà Đỗ Phủ luôn lấy làm tự hào.

Ông không có điều kiện vùng vẫy dọc ngang, mặc dù trong sáng tác của ông cũng có lúc tự tại tiêu diêu như thế:

Rong chơi Tề, Triệu, thoả tình,
Áo cừu, ngựa tốt, nghĩ mình cuồng ngông

Nhưng thơ ông lại không bay bổng phóng khoáng như Lý Bạch. Dẫu sao đó vẫn chỉ là ngày vui ngắn chẳng tày gang. Trách nhiệm và sứ mệnh luôn là sợi dây xuyên suốt trong cuộc đời của ông. Thơ Đỗ Phủ luôn có sự liên quan với sắc thái thời đại một cách mạnh mẽ. Ông bước từng bước chắc chắn, đối diện thẳng vào những mặt đen tối của xã hội, phản ánh nỗi bi kịch thống thiết của những người vô tội trong thời đại mình.   

Và đó cũng chính là nét hấp dẫn trong sáng tác của Đỗ Phủ. Trong những năm tháng sống đời lang bạt, ông không chỉ diễn tả sự khó khăn và hoàn cảnh khốn đốn của bản thân, mà còn dành tình cảm cho những binh sỹ và dân nghèo. Sự ổn định của ông không chỉ là nét trầm tĩnh, mà còn phát triển hơn nữa thành sự kiên định và cương nghị, mang non nước của dân tộc mà tiến về phía trước.

Trong Sử ký – Bá Di Liệt Truyện có câu: “Kẻ tham lam chết vì tiền tài, kẻ sỹ bất khuất chết vì danh tiếng, người thích hư danh chết vì quyền lực, chỉ có thường dân là ham sống”. Mà cái nhìn rất chân rất thiện về thế gian của Đỗ Phủ là xuất phát từ bản năng của ông: “Kẻ sỹ lấy việc thiên hạ làm việc của mình”. Đây là điều mà ông không cách nào buông xuống được, khiến bản thân ông không biết làm thế nào để vơi nhẹ nỗi lòng. Chính sự trăn trở về thế sự ấy đã làm nên tinh hoa của thơ Đỗ Phủ với hào quang chiếu rọi khắp nơi.

Thi Thánh Đỗ Phủ. (Ảnh: wikipedia.org)

Tuổi già đọc Tô Thức

Tô Thức từng sống những năm tháng đày ải ở Hoàng Châu, vốn là nơi hoang vu và hẻo lánh. Ông phải sống cuộc sống bấp bênh chưa từng có, trong khi kẻ đối địch lại không chịu buông tha cho ông. Mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực, giữa nhập thế và xuất thế cứ đan xen trong tâm trí, khiến ông không cách nào thoát khỏi. Khi ăn uống kham khổ, ông viết “Hàn thực thiếp”, kể về ngôi nhà nhỏ như chiếc thuyền đánh cá ẩn hiện trong mây nước mịt mù, và gian bếp trống trơn rau luộc lạnh ngắt, cái bếp vỡ đốt lau sậy ẩm ướt.

Nhưng đó vẫn chưa phải là toàn bộ cuộc sống của Đông Pha cư sĩ. Ông đã tìm kiếm sự an nhàn trong tư tưởng Thích – Lão vốn được tiếp thu từ sớm, hấp thu tinh hoa của tam giáo Nho – Thích – Đạo. Những điều đó đã giúp ông có được tư tưởng tĩnh tại, “cẩn thận điềm tĩnh ứng phó nỗi ưu sầu hoạn nạn”, có được chỗ dựa tinh thần mà từ đó trở nên lạc quan, sống ở nơi lưu đày nên cứ tùy ý mà thích ứng. Trong bức thư gửi cho Tử Do, ông viết: “Tùy tình cảnh mà tiêu diêu, tùy duyên phận mà buông xả”.

Tự ông khai hoang trồng trọt, ra vào nơi bếp núc, rửa sạch chảo gang, thêm một chút nước, đưa ít củi vào lò, dẫu lửa không đủ nhưng vẫn ninh được nồi thịt ngon. Cuộc sống thanh bần nhờ đó mà thêm một chút dễ chịu, những ngày làm việc đồng áng cũng vẽ thêm màu sắc cho ngày tháng lưu đày. Cho nên ngoài gia cảnh bần cùng khổ cực, ông cũng tạo cho mình một con thuyền nhỏ trôi theo dòng, khoáng đạt điềm nhiên mà sống quãng đời còn lại trên sông nước. Những khổ nạn và cay đắng qua năm tháng dần dần bị mài mòn, thậm chí còn phảng phất chút sắc màu lãng mạn. Điều đã qua chỉ là quá khứ, điều còn lại là ngũ vị đầy đủ của cuộc đời.

Tô Thức. (Ảnh: wikipedia.org)

***

Câu chuyện của ba thi nhân lớn thời Tống từ – Đường thi cho ta thấy chuẩn tắc sống của người xưa: “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (sống cảnh bần hàn mà không đổi tiết, đối mặt uy vũ mà không chịu khuất phục).

Khi đối diện với những chướng ngại trên đường đời, chỉ có thong dong tự tại mới có thể có lực lượng bất khả chiến bại. Hãy học cách thích ứng với bình thản, học cách bảo vệ sự yên tĩnh. Cảnh khốn cùng không vây khốn lòng tin, cảnh thuận lợi không đánh mất tâm ý ban đầu. Trong mùi vị đạm bạc thưởng thức dư vị bình tĩnh, khiến con người bừng tỉnh và hiểu rằng sự lâu dài là lộ trình ắt phải đi qua, sự rực rỡ chỉ là phần sơ khởi ban đầu.

Vạn vật đều có lên có xuống, và cuộc sống cũng luôn có những thăng trầm. Dòng sông của sinh mệnh đang chảy qua sự sung sức của ngày xuân, sự nồng nhiệt của ngày hạ, sự trầm mặc của ngày thu, cuối cùng quy về sự điềm tĩnh của ngày đông. Những quanh co của đời người cuối cùng quy về bình lặng, yên tĩnh mới là chủ đề không thay đổi.

Theo Sound of Hope
Tác giả: Ngô Vĩnh Kiện
Biên dịch: Mạn Vũ
Biên tập: Tâm Minh

Exit mobile version