Chữ Hán với nội hàm thâm sâu đã trở thành di sản văn hóa không chỉ của Trung Hoa mà còn là của cả thế giới, đặc biệt tại những nước “đồng văn” với Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các quốc gia nói trên đều có thời gian dài sử dụng và đã biến chữ Hán thành một phần văn hóa của dân tộc mình.
Mặc dù người Việt không giao tiếp bằng tiếng Hán, nhưng loại chữ này vẫn được cha ông ta tiếp thụ để bổ sung thêm vào sự giàu đẹp của tiếng Việt. Đó chính là bộ phận chữ Hán Việt và chữ Nôm – một loại chữ do chính người Việt phát minh dựa trên cách viết của các bộ Hán tự. Hơn thế nữa, ông cha ta còn dung nạp và vận dụng chữ Hán trong đời sống thường nhật, khiến nó trở thành một loại nghệ thuật ngôn ngữ, gọi là thú chơi chữ.
Không giống hoàn toàn như thú chơi chữ làm câu đối của người Trung Quốc, thú chơi chữ của nước ta gồm cả Hán lẫn Nôm với biết bao giai thoại thú vị được ghi lại trong lịch sử.
Nhân dịp đầu Xuân, người viết xin góp nhặt lại những giai thoại độc đáo nhất về cách chơi chữ của ông cha xưa để độc giả cùng thưởng thức.
Trạng nguyên Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền thi đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi, trở thành Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử thời vua Trần Thái Tông. Đây cũng là khoa thi Nho học đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đặt ra danh vị Tam khôi, bao gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, và Thám hoa.
Với trí thông minh tuyệt đỉnh, Nguyễn Hiền đã để lại nhiều giai thoại chơi chữ khá thú vị.
Đối đáp với quan Lang Trung
Hồi mới lên 7, Nguyễn Hiền thường hay chơi trò nặn đất với đám bạn mục đồng. Một lần cậu nặn con voi đất, rồi lấy bốn con cua để vào bốn chân, lấy đỉa làm vòi, lấy bướm làm tai, thành ra voi đất cũng cử động được, khiến bọn trẻ vui thích reo hò ầm ĩ. Chợt một ông quan đi qua đứng lại xem và hỏi chuyện cậu bé Hiền. Thấy cậu bé khéo léo lại láu lỉnh, ông quan liền đọc đùa một câu:
“Bọn trẻ năm sáu đứa, không đứa nào khéo bằng mày”
(“Ðồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo!”)
Cậu bé Hiền thấy vậy, hỏi ông quan rằng:
– Trước hết xin ông cho biết ông làm chức quan gì?
Quan nói:
– Ta là quan Lang Trung, mỗi tháng ăn lương hai ngàn hộc.
Thấy quan có ý khoe khoang, cậu bé Hiền liền đối rằng:
“Quan lang trung ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai… bằng ông.”
(“Lang trung nhị thiên thạch, mạc nhược công.”)
Quan cười bảo:
– Ðối còn thiếu một chữ!
Nguyễn Hiền nài cho tiền rồi sẽ đối nốt. Quan cho tiền xong, cậu liền bổ sung chữ “Liêm” (廉) vào vế đối.
Quan chịu là giỏi, nhưng vui miệng hỏi thêm:
– Thế nếu ta không cho tiền, thì cháu đối chữ gì?
Nguyễn Hiền trả lời:
– Khó gì? Nếu ngài không cho tiền thì cháu chỉ việc điền chữ “Tham” (貪) vào thôi!
Quan biết thằng bé láu cá, đành phải bỏ đi không dám trêu chọc gì nữa, kẻo lại mang tiếng “to đầu mà dại”!
Đối đáp với quan khâm sai
Nguyễn Hiền quê ở làng Hà Dương (tỉnh Nam Định). Năm 13 tuổi, cậu đi thi đình và đỗ Trạng nguyên. Tại lễ triều kiến các vị tân khoa, vua Trần Thái Tông thấy Trạng quá nhỏ, bèn cho về quê, hẹn ba năm sau sẽ cho vào triều phong quan. Được ít lâu, sứ thần Mông Cổ đem một bài thơ sang thách giải nghĩa:
“Lưỡng nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điên đảo sơn
Nhị vương tranh nhất quốc
Tứ khẩu tung hoành gian”.
Vua Trần hỏi các quần thần thì không ai giải được, phải sai hai quan văn võ đến nhà Nguyễn Hiền mời vào triều để hỏi.
Hai viên khâm sai không quản ngày đêm, phi ngựa nước đại tìm về làng Trạng. Thấy một lũ trẻ đang đùa nghịch ở gốc đa đầu làng, viên quan võ thử ra một câu đối để dò xem Trạng có mặt trong đám ấy chăng. Vế ra là:
“Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con ai con nấy?”
Một đứa trẻ đối ứng khẩu ngay:
“Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này?”
Vế đối là theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ “Tự” (字) có hai bộ phận, trên như cái giằng xay, dưới là chữ “Tử” (子). Để nguyên “Tự” có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ “Tử” nghĩa là con, và gắn luôn với vế đối nôm tiếp đó thì thành một câu hỏi nửa Hán nửa Nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới.
Trạng Hiền cũng đối lại bằng cách chiết tự chữ Hán kết hợp với một phần Nôm: chữ “Vu” (于) là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang (一) ở giữa thành chữ “Đinh” (丁), nghĩa là đứa, đi với ‘đứa nào đứa này’ là một vế đối rất chỉnh và rất xược.
Đối xong đám trẻ giải tán ai về nhà nấy. Hai viên sứ giả biết đứa trẻ ấy là Trạng Hiền, mới hỏi thăm đến tận nhà thì thấy Trạng đang lúi cúi ở dưới bếp.
Viên quan văn bèn đọc một câu rằng:
“Tôi nghe quân tử xa chỗ bếp núc, sao phải nịnh vua bếp?”
(“Ngô văn quân tử viễn bào trù, hà tu mị Táo?”)
Trạng Hiền ứng khẩu đối ngay:
“Ta vốn có chức làm được Tể tướng, nhưng còn tạm nấu nồi canh.”
(“Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh.”)
Hai vị khâm sai biết đúng là Trạng bèn mời về cung, Trạng nói:
– Trước, vua chê ta không biết lễ. Nay thì chính nhà vua cũng không biết lễ. Ta không phụng chiếu đâu. Nếu nhà vua muốn mời ta về phải có voi ngựa, bằng sắc, mũ áo rước thì ta mới đi.
Sứ phản hồi xin vua đầy đủ các nghi thức trên, bấy giờ Trạng mới chịu hồi cung. Khi đến kinh, Trạng Hiền cầm bút viết ra một chữ và giải rằng:
– Câu thứ nhất nghĩa là chữ “Nhật” (日), ngược xuôi bằng đầu nhau. Câu thứ nhì là bốn chữ “Sơn” (山), ngược xuôi cũng là chữ Sơn cả. Câu thứ ba hai chữ “Vương” (王), tranh nhau ở trong một nước, câu thứ tư là bốn chữ “Khẩu” (口), ngang dọc đều là khẩu cả. Tóm lại chỉ là một chữ “Điền” (田).
Giải xong, đưa cho sứ giả xem, sứ phải chịu là giỏi.
Vua Lê Thánh Tông
Ông tên thật là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ. Không chỉ là vị vua vĩ đại xây dựng nên vương triều hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam, Lê Thánh Tông còn được biết đến như một nhà thơ đầy tài năng. Kỹ thuật chơi chữ làm câu đối của ông cũng đi vào giai thoại với nhiều câu đối vịnh những việc bình thường nhưng mang khẩu khí đế vương.
Câu đối tặng nhà thợ nhuộm
Vào tối 30 Tết năm nọ, vua Lê Thánh Tông giả làm người học trò đi dạo xem các câu đối ở kinh thành. Chợt qua cửa nhà một người đàn bà làm nghề thợ nhuộm, thấy không có câu đối, nhà vua lấy làm lạ ghé vào thăm hỏi. Người đàn bà kêu là góa chồng, còn con trai thì vẫn là học trò nhỏ chưa biết làm câu đối. Nhà vua liền bảo lấy giấy hồng điều và bút mực, rồi vua hạ bút viết hộ một câu đối như sau:
“Xanh vàng thiên hạ đều tay mỗ
Đỏ tía trong triều bởi cửa ta.”
(“Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều trung chu tử tổng ngô môn.”)
Những câu trên miêu tả nghề thợ nhuộm nhưng lại hiện lên hình ảnh của một người nắm quyền thiên hạ: “Xanh vàng” cũng là hai màu tượng trưng cho dân thường và hoàng đế hay hoàng gia. “Chu tử” tức là đỏ và tía, là màu áo của các quan từ thấp cho đến cao. ‘Tất cả đều qua tay ta’, nếu không phải chúa thiên hạ thì còn ai vào đây?
Mấy hôm sau, Thượng thư đương triều là Trạng nguyên Lương Thế Vinh đi chầu qua nhà thợ nhuộm, thấy câu đối có khẩu khí như vậy thì hoảng hốt vô cùng. Vào triều, họ Lương tâu với vua rằng ngoài phố có nhà nọ có ý muốn làm vua thiên hạ, cần phải cho người đi dò xét. Lê Thánh Tông nghe xong phì cười, nhận câu đối đó là do chính tay mình viết hộ, khiến Thượng thư họ Lương bị một phen chưng hửng. Sau đó, quan Thượng thư thầm nghĩ rằng nhà thợ nhuộm mà Tết nhất lại được Thiên tử ngự giá đến, hẳn sau này con cháu phải giàu sang lắm, bèn đem ngay cô con gái út đến gả cho con trai nhà thợ nhuộm. Có thuyết khác lại nói đôi câu đối này do vua Thiệu Trị tặng hàng thợ nhuộm.
Câu đối tặng nhà người hốt phân
Vào một dịp Tết khác, vua Lê Thánh Tông lại giả làm thường dân đi chơi phố phường để xem xét dân tình. Đi tới đâu nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị nên rất hài lòng. Riêng nhà nọ chẳng treo đèn kết hoa, cũng chẳng có đối liễn gì hết.
Vua rẽ vào hỏi, chủ nhà trả lời rằng:
– Chả giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với phố phường cho thêm tủi!
Vua ngạc nhiên nói:
– Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?
Chủ nhà cứ thật thà trả lời:
– Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi hót phân người để bán thôi ạ!
Nhà vua nghe xong, cười bảo:
– Ồ, nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!
Rồi vua gọi lấy giấy bút, viết giùm cho một đôi câu đối như sau:
“Thân khoác chiến bào, có thể lo toan những việc khó khăn trên đời
Tay cầm ba thước gươm, thu hết lòng người trong thiên hạ.”
(“Thân nhất nhung y năng đương thế gian chi nan sự
Thủ tam xích kiếm tận thu thiên hạ chi nhân tâm.”)
Câu đối tài tình vẫn miêu tả đúng hình tượng người hốt phân (mặc áo tơi, tay cầm gàu hốt) đang làm công việc của mình. Nhưng người ta không thể khinh được nữa vì đó đúng là việc khó khăn trên đời – Có việc nào khó bằng thu được lòng người trong thiên hạ đâu? Đây là hình ảnh của một ông vua sáng nghiệp “thân bố y, tay trường kiếm” thường thấy trong sử sách.
Câu đối tặng bà lão hàng nước
Một lần, khi ra ngoại thành xem dân tình chuẩn bị Tết, nhà vua ghé thăm một quán bán trầu nước. Thấy gia đình neo đơn, chưa có không khí đón Tết, ông đã tự tay viết giúp bà chủ quán đôi câu đối đỏ hoàn toàn bắng tiếng mẹ đẻ treo trước cửa hàng:
“Nếp giầu quen thói kình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng.”
Câu đối trên miêu tả một quán bán trầu nước mà ta thường gặp, có đủ “giầu” (cau), “cơi” (trầu), “ấm”, “nước”, “bát”, “hàng”… nhưng lại mang khẩu khí của bậc đế vương: “Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng”.
Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Khuyến không như ý. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, ông đã từ quan về ở ẩn nơi thôn dã. Tuy nhiên tài năng thi phú của ông lại danh truyền hậu thế, đặc biệt nhất là những câu đối cả Hán và Nôm thể hiện nghệ thuật sử dụng ngôn từ vô tiền khoáng hậu.
Câu đối cho chị hàng thịt tốt bụng
Chị hàng thịt ở góa từ khi còn trẻ. Chị nối nghề của chồng nên làm ăn khá giả. Nhân ngày giáp Tết, chị mang biếu cụ Tam Nguyên – người hàng xóm của mình – đôi bồ dục và bát tiết canh lợn. Cụ Yên Đổ liền ứng tác tặng chị bán thịt tốt bụng câu đối về treo Tết bằng chữ Hán:
“Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.”
Tạm dịch:
“Bốn mùa, tám tiết luôn chung thủy
Dặm liễu, gò bồ muốn điểm trang.”
Mới nghe qua ai cũng tưởng đây là một câu đối chữ Hán, có nghĩa là: bốn mùa tám tiết bền chung thủy. Nhưng bờ cỏ, dặm liễu cũng vẫn còn muốn trang điểm. Hai câu miêu tả lòng chung thủy của người vợ góa, cố gắng giữ lòng chung thủy với chồng dù cho vẫn còn xuân sắc.
Nhưng hai chữ “tiết” và “canh” trong vế trên cùng với “bồ” và “dục” trong vế dưới nếu đọc liền nhau lại là tiếng Việt thuần túy, với “tiết canh” và “bồ dục” là hai món quà của chị hàng thịt tặng cụ, qua đó cũng nói lên lời cảm ơn và khen ngợi lòng chung thủy của chị.
Vì cách dùng chữ Hán Việt tuyệt diệu vậy nên có thể coi đây là một câu đối Nôm viết bằng chữ Hán vậy. Tam Nguyên Yên Đổ chính là bậc thầy của dạng câu đối này.
Câu đối cho chú tiểu ngọng và sư cụ móm
Một lần Nguyễn Khuyến đi qua chùa Đọi ở Hà Nam. Chùa này có một chú tiểu nói ngọng và một sư cụ móm nói phều phào đang tụng kinh. Thấy sự trùng hợp thú vị, cụ Tam Nguyên Yên Đổ ứng khẩu làm ngay đôi câu đối:
“Phất phất phóng phong phan, pháp phái phi phù, phù phụng phật
Căng căng canh cổ kệ, cao ca kì cứu, cứu cùng kinh.”
Tạm dịch:
Phất phơ cờ phướn bay trước gió, đạo pháp và cờ phướn bay để thờ Phật
Tất cả cùng đọc kinh cổ, đọc to lên để khảo cứu kinh Phật cho đến cùng.
Mới nghe qua thì là một câu đối ca tụng Phật Pháp. Nhưng khi đọc theo âm Hán Việt thì ta lại nghe như hai câu nói của cụ già bị móm (câu trên) và cậu bé nói ngọng (câu dưới). Quả thật rất tài tình!
Câu đối cho vợ chồng anh coi chợ
Xưa có một anh làm nghề coi chợ, còn gọi là khán thị. Nhờ vị thế coi chợ, vợ chồng anh ta còn buôn bán thêm, kiếm được khá, chẳng bao lâu xây được căn nhà to, vừa sát chợ lại gần sông. Anh muốn tổ chức một bữa liên hoan thật hoành tráng mừng nhà mới. Mặc dù chữ Nho anh chỉ biết lõm bõm, nhưng cũng muốn có một câu đối để thể hiện mình là người có học trong buổi tiệc. Nhưng chị vợ lại mù tịt chữ Nho nên muốn thửa một cặp câu đối chữ Nôm cho dễ hiểu.
Sau một hồi tranh cãi không ngã ngũ, không ai chịu ai, vợ chồng anh cùng kéo nhau đến gặp cụ Tam Nguyên. Cụ cười bảo:
– Thôi thôi, để ta chiều cả hai, viết một bên Nho, một bên Nôm, được chưa nào?
Rồi cụ viết:
“Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tịch ốc
Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu tôm.”
Vế trước bằng chữ Hán, ca ngợi vị trí đẹp của ngôi nhà. Vế sau bằng chữ Nôm, ca ngợi cái địa vị mới của anh coi chợ. Cái hay là chữ Hán và Nôm nhưng lại đối nhau chan chát, nghe qua quả thật đúng y hai vợ chồng đang cãi nhau.
“Thị” đối “làng”, ”giang” đối “nước”, “thử địa” đối “nhờ trời”, “nhất” và “nhị” tức là số một và hai đối với “giàu” và “sang”. Ba chữ cuối “giai tịch ốc” (Hán) đối với “vểnh râu tôm” (Nôm) càng độc đáo hơn. Vốn “giai tịch ốc” nghĩa là “tích lũy xây được nhà đẹp” nhưng đọc theo âm Nôm là “một con ốc đẹp” đối với “vểnh râu tôm” trong tích “rồng đến nhà tôm” cũng có nghĩa đen là con tôm. Ốc Tôm lại là hai sinh vật sống dưới sông, cũng là sản vật phổ thông mà người ta hay buôn bán ngay đó, vừa đúng ngay vị trí nhà của anh này gần chợ sát cạnh sông và chẳng phải cũng đúng với cái nghề coi chợ còn gì?
***
Tiếng Việt giàu và đẹp, những giai thoại về câu đối chữ của cha ông ta đã thể hiện trí tuệ uyên bác của người xưa. Mời độc giả cùng đón đọc kỳ tiếp theo với những câu đối tuyệt đỉnh của Nguyễn Công Trứ, nữ sỹ Đoàn Thị Điểm và Bảng nhãn Vũ Duy Thanh.
(Còn nữa)
Tĩnh Thủy