Vào thời đại nhà Trần, dưới triều vua Trần Duệ Tông có một người con gái tài sắc vẹn toàn, tuy không thuộc vào hàng quốc sắc thiên hương nhưng cũng là giai nhân tuyệt sắc, tuy không phải bậc văn nhân hay thi sĩ nhưng cũng để lại tiếng thơm lẫy lừng thiên cổ; và dung mạo, tài năng, cùng với đức hạnh của nàng vẫn luôn là tấm gương sáng ngời cho hậu thế sau này.
Chuyện kể về Nguyễn Thị Bích Châu, một cung phi từng được vua Trần Duệ Tông hết mực sủng ái.
Người con gái tài sắc vẹn toàn
Theo văn bia và các tài liệu ghi chép lại, Nguyễn Thị Bích Châu (1356-1377) là con gái của đại thần Nguyễn Tướng Công, quê ở vùng đất mà ngày nay là xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Cái tên của nàng có ngụ ý là người con gái cao quý, sánh ngang với châu ngọc và lưu ly trên đời. Từ nhỏ Bích Châu đã nổi tiếng là có tài năng thiên bẩm, thông hiểu văn chương, biết thi phú, thạo âm luật, lại xinh đẹp như hoa như ngọc. Đến năm 17 tuổi, tức năm Quý Sửu (1373), nàng được tuyển vào cung và trở thành một thần phi của vua Trần Duệ Tông, được nhà vua rất mực thương yêu, gọi là Nguyễn Cơ, ái phi Bích Châu, hay ái phi Bích Lưu.
Chuyện kể rằng Trung Thu năm ấy, trong cung mở hội yến các phi tần, vua Duệ Tông nhìn trông bốn mặt, thấy trên tòa lâu đài đang ngân nga tiếng hát, bóng người cùng bóng đèn xen lẫn bóng trăng soi. Nhân lúc tửu hứng cao trào, vua ngẫu nhiên tác thành một vế đối:
“Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế”
(Trời thu gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng)
Rồi ngài đoái trông Bích Châu mà rằng: “Nàng có thể họa lại câu ấy chăng?”
Nàng dời gót ngọc mỉm miệng cười, ung dung ứng khẩu đối rằng:
“Xuân sắc trang đài khai bảo kính, thủy để phù dung”
(Xuân sắc đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước)
Vua khen ngợi hồi lâu, ban cho nàng một đôi “Ngọc Long Kim Nhĩ” (hoa tai vàng cẩn ngọc hình rồng nổi) và đặt tên hiệu cho nàng là Phù Dung. Từ đó nàng được nhà vua sủng ái hơn cả một cung phi.
Kê Minh Thập Sách – một áng văn thiên cổ
Theo sử sách, Trần Duệ Tông là vị hoàng đế dũng cảm, cá tính mạnh mẽ, mang hoài bão chấn hưng Đại Việt vốn đã suy bại từ thời vua Trần Dụ Tông và Dương Nhật Lễ. Ông cũng là người đã đưa ra nhiều chính sách tiến bộ như tuyển chọn nhân tài – không phân biệt là xuất thân bình dân hay hoàng tộc, coi trọng nho sĩ, đề cao văn hóa nước nhà, như: không cho phép mặc áo kiểu phương Bắc và hạ lệnh thần dân không bắt chước tiếng nói Chiêm-Lào.
Thế nhưng Duệ Tông cũng là một ông vua nóng nảy, ương gàn và cố chấp. Lúc đó chính sự chưa yên, lòng dân bất ổn, nhà Trần vừa mới vực dậy từ sau những năm rối ren dưới đời Hôn Đức (Dương Nhật Lễ), lại thêm quân Chiêm Thành (Chăm Pa) luôn nhăm nhe nhòm ngó bờ cõi nước ta. Trước thế sự ấy, cung phi Bích Châu đã soạn bản “Kê minh thập sách”, ngụ ý mượn tiếng gà gáy sáng để dâng lên 10 kế sách trị nước an dân, đại lược rằng:
“Trộm nghĩ, dời củi khỏi bếp gianh, giữ cháy trước khi chữa cháy. Dùng dậu ràng cửa tổ, phòng mưa trước lúc chưa mưa, vì nhân tình dễ chìm đắm vào sự yên vui, mà thế vận khó lòng giữ được luôn bình trị. Cho nên tiến lời răn hoang đãi, Cao Dao trước hết ngợi khen, ở vào đời thái bình, Giả Nghị đã tâu lời than thở.
Chỉ vì yêu vua mà ngăn trước, không phải trải chứng để khoe tài. Kẻ thiếp hèn này tên là Bích Châu, lúc nhỏ sinh ra ở nơi nghèo hèn, khi lớn được vào cung cấm, chứa chan thưởng tứ, đằm thắm thương yêu, thêu xiêm áo vua Ngu, dám đâu sánh với người nam tử, trút trâm giái Khương – bậu tiến lời can đứng trước đình thần. Bày tỏ mười điều băn khoăn tấc dạ:
Một là: Năng giữ cội gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui
Hai là: Giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu thì kỉ cương không rối
Ba là: Nén kẻ quyền thần, để ngăn ngừa chính sự mọt nát
Bốn là: Thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ lệ khoét đục của dân
Năm là: Xin cổ động nho phong khiến cho lửa bó đuốc cùng với ánh mặt trời cùng soi sáng
Sáu là: Mở đường cho người nói thắng để cho cửa thành cùng với đường can gián đều mở toang
Bảy là: Cách kén quân nên chú trọng dũng lực hơn là cao lớn
Tám là: Chọn tướng nên cần người thao lược mà không căn cứ vào thế gia
Chín là: Khí giới quí chỗ bền sắc không chuộng hình thức
Mười là: Trận pháp cốt cho chỉnh tề cần chi điệu múa
Mười điều kể trên, rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng?
Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”
Khi bản sớ được dâng lên vua, Trần Duệ Tông cảm kích thốt lên rằng: “Không ngờ một nữ tử lại thông tuệ đến thế! Thật là một từ phi ở trong cung của trẫm vậy!”
Người đời sau coi Kê Minh Thập Sách như một kiệt tác, chỉ với mười lời khuyên nhỏ nhẹ, ngắn gọn, súc tích, nhưng đã bao quát tất cả mọi vấn đề chính trị, văn hóa, và quân sự của triều đại nhà Trần đang thời mạt vận. Thế nhưng tiếc rằng Kê Minh Thập Sách lại không được nhà vua thi hành.
Cái chết huyền thoại của cung phi Bích Châu
Vào năm Long Khánh thứ tư, tức năm 1376, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga hung hăng đem quân sang gây hấn nước ta, vua Trần Duệ Tông đã giận dữ xuống chiếu ngự giá thân chinh đi đánh giặc. Bích Châu biết rằng vua không chịu nghe lời trung thần can gián mà có ý khinh địch, bèn viết bài biểu văn thưa rằng:
“Thiếp trộm nghĩ, rợ Hiếm Doãn ngang tàng quá lắm, từ trước quen thân, rợ Hung Nô kiệt biệt ghê gớm, đến nay càng tệ. Vì cướp bóc là cái thói thường của man di mà dụng binh không phải bản tâm của vương giả. Chiêm Thành nhỏ xíu kia ở mếch nơi hải đảo, năm xưa kéo quân vào Nhị Thủy nhòm thấy nước ta bất hòa, khi ấy tiếng trống động ngoài biển, chỉ vì lòng dân chưa ổn. Cho nên dám tung đàn ruồi nhặng để múa cỏ, có khác nào giơ càng bọ ngựa ngăn bánh xe.
Nhưng thánh nhân rộng lượng bao hàm, không thèm cùng với tiểu nhân so sánh, và trị đạo trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàm, trị cái rắn dùng cái mềm, phục người xa lấy đức. Ngu bệ múa can vũ, bảy tuần tức khắc Miêu đến chầu. Hạ cung gẩy thiết cầm, chẵn tháng tự nhiên Hồ quy phục. Đó thật là thượng sách xét đoán cho minh.”
Tờ biểu ấy dâng lên cũng không thể lay chuyển nhà vua, nàng thấp thỏm không yên, bèn xin được đi theo hộ giá.
Đúng ngày xuất binh, Trần Duệ Tông đem theo 20 vạn quân sĩ, cờ xí rợp trời, trống chiêng dậy đất, thuyền bè đầy sông, hùng khí chất ngất đến từng mây, ba quân thuận theo dòng sông mà thẳng tiến.
Khi đến cửa biển Kỳ Hoa (nay thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), trời bỗng nổi cơn phong ba, sóng bể gào thét. Quân Trần không thể tiến được đành phải neo thuyền tránh gió bão.
Đêm ấy, vua Duệ Tông mộng thấy một vị thần tự xưng là Nam Minh đô đốc, là thủ hạ của vua thủy tề Quảng Lợi vương, muốn xin vua ban cho một người thiếp, nếu được như ý nguyện mới làm cho sóng yên bể lặng để thuyền rồng đi qua. Đến khi tỉnh giấc, vua vẫn chưa hết bàng hoàng bèn vời các phi tần vào và kể lại chuyện trong mộng. Các cung phi tái mặt nhìn nhau, chỉ im lặng không dám cất lời, chỉ riêng có nàng Bích Châu nghẹn ngào quỳ trước vua tâu rằng:
“Nếu không phải là oan khiên ngày trước cũng tất là nghiệp chướng ngày nay. Thiếp đây không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho xong cái nợ trước mặt vậy.”
Rồi nàng khẩn khoản xin rằng:
“Thiếp tuy là phận gái và cũng theo đòi bút nghiên, có tin mê những việc ma quỷ đâu. Nhưng khốn việc đã đến nơi, thế không dừng được. Vi bằng nấn ná, e rằng lại xảy ra tai biến. Vả lại trong khi hành quân, tướng sĩ là trọng, ân ái là nhẹ. Có duyên may đươc hầu chăn gối, dám tiếc chết để nghĩa phụ phàng, chỉ hiềm rằng ‘ra quân chưa thắng thân xuôi trước, luống để anh hùng nước mắt tuôn’ điều đó là cái hận của thiếp vậy. Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn, nghi võ, dụng người hiền làm điều nhân nghĩa như đế vương, dựng chước lâu dài cho nhà nước, được như thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối”.
Mặc hết những lời can ngăn, Bích Châu vẫn một mực tha thiết tâu xin được có dịp vinh hạnh phò vua, giúp quân, đền nợ nước. Một cung nữ tài sắc vẹn toàn, mới kề cận nhà vua chưa đầy bốn năm, được vua Duệ Tông sủng ái rất mực như vậy mà dám lìa bỏ tất cả, can đảm hy sinh thân mình thì quả thật là một việc làm quá đỗi phi thường. Dẫu chỉ là thân gái liễu yếu đào tơ, nhưng giờ đây nàng lại hiện lên rực sáng như một nữ tướng dũng cảm can trường của quan quân triều đại nhà Trần.
Sau khi nàng gieo mình xuống biển, mưa bỗng tạnh, gió bỗng dừng, sóng yên bể lặng, đoàn quân lại gạt nước mắt lên đường. Năm ấy cung phi Bích Châu mới vừa 20 tuổi.
Thế nhưng, vì Trần Duệ Tông không nghe lời can gián, vẫn cho quân tiến sâu vào động Y Mang, đất Chiêm, trúng phải quỷ kế của giặc Bà Ma, một tướng của Chế Bồng Nga, khiến toàn quân bị giam hãm trong động ấy. Vua tử trận ở Đồ Bàn (Quy Nhơn ngày nay). Sử ghi đó là ngày 23 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377).
Một thế kỷ sau, vào năm Canh Dần 1470 (có tài liệu ghi là 1471), vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua cửa biển Kỳ Hoa, nàng Bích Châu báo mộng xin được nhà vua làm lễ giải thoát. Vua sai làm tờ hịch bắn ra biển trách vua Thủy tề là Quảng Lợi vương. Vua Thủy tề liền ra lệnh tróc nã giao thần Nam Minh đô đốc. Sau đó hương hài nàng Bích Châu nổi lên mặt nước, nhan sắc diễm lệ vẫn như lúc bình sinh. Nhà vua sai làm lễ mai táng, lại sai lập đền thờ ở cửa biển và có sắc phong thần cho nàng. Sắc phong có hai chữ “Chế thắng” nên đền này được gọi là “Đền bà Chế thắng”, hay “Chế thắng phu nhân từ”. Đến nay vẫn còn bài điếu của vua Lê Thánh Tông viết rằng:
Nàng xưa cung nữ của Hy Lăng
Vì nước lâm nguy, quyết xả thân
Một trận gió yêu gây sóng cả
Hồn nương bến bãi suốt đêm xuân
Bỗng dưng sông lạnh vùi thân gái
Biết chốn nào đây viếng nữ thần?
Vạn cổ cương thường lòng chẳng thẹn
Thư cưu giỡn sóng dưới chân đền.
Cho đến nay câu chuyện về cung phi Nguyễn Thị Bích Châu vẫn là một truyền thuyết đẹp. Có lẽ vì cuộc đời của nàng mang đầy màu sắc huyền sử và thần thoại nên không được ghi nhận trong chính sử; và có đọc Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ Nhà Trần, trong phần viết về cuộc xuất quân đánh Chiêm Thành của vua Trần Duệ Tông cũng không thể tìm thấy cái tên Bích Châu. Nhưng người cung phi Nguyễn Thị Bích Châu là có thật, bài điếu của vua Lê Thánh Tông bên cửa biển Kỳ Hoa cũng là có thật, các truyền thuyết và truyền kỳ về nàng vẫn được người đời sau kể lại, và ngôi đền thờ nàng ở xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đến nay vẫn nghi ngút khói hương…
Hồng Liên
Xem thêm: