Câu chuyện Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh được nhắc đến trong cả “Cựu Đường Thư” và “Tân Đường Thư”, nhưng hầu hết đều vô cùng giản lược.
Mặc dù vậy, những trải nghiệm chân thật và đầy đủ nhất về hành trình sang Tây Trúc đã được chính Huyền Trang thuật lại và được hai đệ tử của ông là Huệ Lập và Ngạn Tông ghi chép trong cuốn sách tên là “Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện” (truyện ký của pháp sư Tam Tạng chùa Đại Từ Ân), gọi tắt là “Từ Ân truyện”.
Phật duyên
Huyền Trang tên thật là Trần Huy, còn được gọi là Trần Y, từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, đặc biệt đĩnh ngộ đối với kinh Phật. Năm 13 tuổi xuất gia ở Lạc Dương, trình độ Phật học của ông rất mau chóng đã đạt đến cảnh giới cao thâm. Khi các tăng nhân trong vùng không còn gì để truyền dạy nữa, Huyền Trang bèn đi khắp nơi để học tập và nghiên cứu Phật Pháp. Bởi trình độ Phật học đặc biệt xuất sắc, ông được người đời ca ngợi là “Thích môn thiên lý chi câu” (ngựa khỏe nghìn dặm trong Phật môn).
Trong quá trình tu học, Huyền Trang nhận thấy cùng một bộ kinh nhưng lại có nhiều bản dịch khác xa nhau, cùng một sự việc nhưng mỗi quyển kinh khác nhau lại có các cách giải thích khác nhau. Ông tự hỏi, vậy kinh Phật ban đầu rốt cuộc được giảng như thế nào?
Về sau, có vị tăng nhân kể rằng ở nước Thiên Trúc có một ngôi chùa tên là Na Lạn Đà, trong chùa có vị pháp sư Giới Hiền đặc biệt thông tuệ về “Du Già Sư Địa Luận”.
“Du Già Sư Địa Luận” là kinh điển trong Phật giáo Đại Thừa. Nếu có thể nắm vững cuốn kinh điển này thì sẽ giải khai được rất nhiều nghi hoặc trong quá khứ. Vậy nên Huyền Trang đã hạ quyết tâm sang Tây Thiên cầu Pháp, nhất định phải mang bộ kinh “Du Già Sư Địa Luận” về. Khi ấy, mối quan hệ giữa Đại Đường và Đột Quyết ở phía Tây khá căng thẳng, vậy nên con đường sang Tây Vực cũng tiềm ẩn vô vàn hiểm nguy.
Vượt qua “Phong hỏa đài”
Luật pháp của Đại Đường không cho phép tăng nhân sang các nước Tây Vực, nên Huyền Trang nhiều lần dâng biểu đều không được chấp thuận. Về sau, vào năm thứ ba niên hiệu Trinh Quán, kinh thành xảy ra nạn đói nên đã cho phép các tăng nhân ra ngoài khất thực hóa duyên, cũng có nghĩa là được phép đi đến những vùng miền khác. Huyền Trang liền mượn cơ hội này để lên đường, thẳng tiến về phương Tây.
Nhưng vì triều đình đã có mệnh lệnh, nên ông thường xuyên bị các quan viên địa phương ngăn trở. Thời ấy, trong hệ thống phòng thủ của Đại Đường có rất nhiều chốt điểm gọi là phong hỏa đài (nơi dùng khói lửa để truyền báo thông tin tình hình quân địch). Vậy nên, Huyền Trang đã phải nhiều lần giải thích cho những quan viên và tướng lĩnh trấn thủ phong hỏa đài lý do ông phải sang Tây Thiên cầu Pháp. Quyết tâm kiên định của ông đã khiến họ cảm động, họ liền mở cửa cho ông đi.
Sau khi ra khỏi ải Dương Quan, Huyền Trang phải băng qua 5 lớp phong hỏa đài. Ở biên cương Đại Đường khi đó cứ cách 100 dặm là thiết lập một phong hỏa đài, giữa các phong hỏa đài đều là sa mạc, khó đi vô cùng.
Nếu muốn lấy nước uống, thì chỉ duy nhất ở dưới chân phong hỏa đài mới có nước. Khi Huyền Trang đến phong hỏa đài thứ nhất để lấy nước thì bị phát hiện. Một mũi tên phóng đến trước mặt, ông liền hét lên rằng đừng bắn, tôi là hòa thượng từ Trường An sang Tây Thiên cầu Pháp. Trấn thủ phong hỏa đài là Vương Tường, vốn là người tín Phật nên đã thả cho Huyền Trang đi. Vương Tường dặn dò rằng, người trấn thủ phong hỏa đài thứ tư là thân nhân của tôi, tên là Vương Bá Long, thánh tăng hãy đi tìm huynh ấy, huynh ấy sẽ giúp đỡ thánh tăng.
Đến phong hỏa đài thứ tư, Vương Bá Long nói với ông rằng: “Tôi e là thánh tăng không thể đi về phía trước được nữa. Tôi biết rất rõ người canh giữ phong hỏa đài thứ 5, ông ấy nhất định sẽ bắt ông trở về”. Vương Bá Long còn căn dặn rằng, muốn sang Tây Thiên thì nhất định phải đi vào sa mạc, đến một nơi gọi là suối Ngựa Hoang (Dã Mã), thánh tăng nhất định phải tìm được nơi này mới có thể lấy nước và ra khỏi sa mạc, nếu không thì không cách nào đi được.
Vương Bá Long trao cho Huyền Trang một cái túi da rất lớn đựng đầy nước. Huyền Trang lại xuất phát, đi theo hướng mà Vương Bá Long chỉ dẫn để tìm suối Ngựa Hoang.
Nhưng ông đi mãi đi mãi mà không thể tìm được, không những vậy lại lỡ tay làm rớt cái túi da, khiến nước trong túi chảy sạch hết. Trong sa mạc mà không có nước cũng đồng nghĩa với cái chết. Vậy phải làm sao đây? Nên mạo hiểm tiến bước hay là quay trở về?
Nhưng khi vừa quay đầu, ông đột nhiên nhớ lại tâm nguyện của mình, rằng: “Đã thề sang Tây Thiên cầu Pháp, nếu không lấy được chân kinh tuyệt không trở về Đông một bước. Nay thà về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào về Ðông để sống hèn?”. Sau đó, ông quyết định không quay đầu mà tiếp tục tiến thẳng về phía Tây.
Thà một bước chết ở trời Tây, còn hơn sống lùi về Ðông Thổ
Trong sa mạc quả đúng là: “Trên trời không một cánh chim, dưới đất không một muông thú. Không có cỏ, cây nào có thể sống nổi, không có bất cứ dấu vết nào của sự sống xung quanh. Lúc thì, cát và đá bay mù mịt, lúc thì mưa bão. Không nước, không thức ăn. Lúc tỉnh lúc mê. Lúc thì thấy xương cốt chết khô, di tích chiến trường. Lúc thì thấy những cảnh hung ác, hình tượng ma quỷ”.
Bên trên không có chim trời, phía dưới không có dã thú, chỉ có thể dựa vào phân của lạc đà và xương trắng của những người đã chết làm dấu hiệu. Trong sa mạc còn thường xuyên xuất hiện ảo giác, trong “Từ Ân truyện” có kể về “Gió nóng ma quỷ”, đó thật sự là điều vô cùng đáng sợ.
Huyền Trang cứ như vậy đi một mạch suốt 4 ngày 5 đêm, không có nấy một giọt nước uống. Toàn thân phát nóng, cuối cùng khát quá không thể đi tiếp được nữa, ông liền ngất xỉu ngay trong sa mạc.
Trong lúc sức tàn lực kiệt, ý thức đã không còn thanh tỉnh, nhưng miệng ông vẫn không ngừng tụng niệm kinh văn, cầu khẩn Bồ Tát Quán Âm. Ông khấn rằng, đệ tử đi lấy kinh không vị danh, không vị lợi, chỉ là để mang chân kinh Đại Thừa về Đông Thổ, mong Bồ Tát Quán Âm hãy gia trì cho đệ tử.
Sau đó Huyền Trang khuỵu xuống nằm trên nền cát. Nửa đêm hôm ấy, một trận gió lạnh thổi đến khiến ông thức tỉnh, thể lực đã phần nào hồi phục, ông muốn ngủ một giấc.
Trong mơ, ông thấy một vị Thần cao lớn mặc kim giáp đứng ngay trước mặt, thúc giục ông rằng: “Còn ngủ gì nữa? Đi mau lên!”. Ông liền dậy cưỡi lên lưng ngựa, con ngựa đột nhiên mất kiểm soát, bắt đầu chạy như bay.
Huyền Trang không khống chế được, đành phải nằm im trên lưng ngựa. Con ngựa dẫn ông đến bên cạnh một con suối, nhờ vậy Huyền Trang đã qua được cơn hiểm nghèo.
Rời khỏi sa mạc, ông lại tiếp tục đi về phía Tây, trải qua Yên Kỳ, Khố Xa, tiến vào núi Lăng Sơn. Ngọn núi này cao đến tận mây xanh, đỉnh núi quanh năm băng tuyết bao phủ. Leo lên núi đã không dễ dàng, vậy mà đêm đêm ông lại phải nằm ngủ trên lớp băng lạnh giá. Sau đó, Huyền Trang lại phải vượt qua núi Đại Tuyết, khó khăn hơn cả vạn lần núi Lăng Sơn.
Trong “Thái Bình Quảng Ký” kể lại rằng, đường sang Tây Thiên hiểm trở trùng trùng, hổ báo rình rập, nguy nan chực chờ. Một lần ông khóa cửa phòng lại và ngồi tĩnh tọa trước cửa. Đến nửa đêm, khi mở cửa ra ông ngạc nhiên khi nhìn thấy một lão tăng đang ngồi trên giường. Thật kỳ lạ, cửa đóng then cài, vậy làm thế nào vị sư ấy có thể vào được trong phòng?
Huyền Trang cẩn thận bái kiến và xin lão tăng hãy chỉ cho ông cách vượt qua vùng đất nguy hiểm này để tiếp tục con đường thỉnh kinh. Vị tăng sư bèn truyền cho Huyền Trang một cuốn “Đa Tâm Kinh” và bảo ông hãy tụng niệm. Sau khi tụng kinh, kỳ lạ thay tất cả núi đá đều biến thành bình địa, đường đi khai mở, hổ báo đều lẩn trốn, ma quỷ cũng biến mất không còn tung tích. Huyền Trang lại bình an tiến bước về Tây Thiên.
Cảm hóa đạo tặc, tấm lòng từ bi làm cảm động đất trời
Khi Huyền Trang đến miền bắc Ấn Độ, ông đã ở lại đây một đoạn thời gian trước khi đi bộ tới khu vực trung Ấn Độ. Một hôm ông cùng với hơn 80 người dân địa phương ngồi thuyền xuôi dòng sông Hằng tới nước A Da Mục Khư. Trên đường đột nhiên hàng chục chiếc thuyền cướp xông ra từ rừng cây hai bên bờ. Chiếc thuyền của Huyền Trang trở nên náo loạn, có người vì quá sợ hãi đã nhảy xuống sông để tìm cơ hội thoát thân.
Huyền Trang đã từng nhiều lần gặp phải toán cướp và những tên sát nhân, hầu hết họ đều được giáo hóa mà cải tà quy chính. Nhưng băng cướp lần này lại không hề tầm thường. Chúng không những cướp của mà còn muốn bắt một chàng trai tuấn tú đem về tế lễ cho nữ Thần mà chúng thờ phụng.
Mùa tế lễ sắp qua, mà bọn cướp vẫn chưa tìm được người để tế Thần. Ngay lúc đó một tên trong đảng nhìn thấy Huyền Trang, liền hét lên: “Dùng tên hòa thượng cao to tuấn tú này hiến tế, thực là quá may mắn!”. Huyền Trang khuyến thiện không thành, những người bạn đồng hành van xin cũng vô ích, cuối cùng tất cả đều bị toán cướp giải đi.
Những tên cướp đã sửa xong đàn tế lễ, hai tên cầm đao dí sát vào Huyền Trang và dẫn ông lên đài. Ông tự thấy vô vọng, bèn xin bọn cướp cho mình một chút thời gian để đả tọa viên tịch. Những người bạn cùng thuyền khóc thành một dãy dưới đàn tế Thần, còn Huyền Trang thì thành tâm niệm Phật, phát nguyện vãng sinh để được nghe chân kinh của Phật Di Lặc, rồi sau sẽ hạ thế cứu độ chúng sinh.
Chính trong lúc đối mặt với sinh tử, ông đã chứng ngộ được cảnh giới đại từ bi của bậc giác giả, làm thiên địa cảm động, trời đất cũng liền thay đổi. Trong tích tắc, gió đen nổi lên cuốn theo cát, đá, sóng dâng ngập trời, tàu thuyền gần như lật úp. Bọn cướp sợ hãi lập tức quỳ sụp xuống lạy, có tên hỏi: “Vị hòa thượng này là ai? Lai lịch là gì?”.
“Đây là Pháp sư Huyền Trang từ Đông Thổ Đại Đường đi lấy kinh. Việc các ngươi làm đều khiến thượng thiên phẫn nộ, các người còn không mau sám hối?”.
Bọn cướp vội vàng khấu đầu bái lạy trước đại sư Huyền Trang. Lúc đó Huyền Trang đã đả tọa nhập định, nhìn thấy mình bay qua ba tầng trời Tu Di Sơn, chứng kiến sự trang nghiêm nơi xứ Phật. Sóng gió dần dần qua đi, Huyền Trang liền xuất định và hỏi: “Đã đến lúc rồi sao?”. Ông nghĩ rằng đã đến lúc bị bọn cướp chém đầu rồi.
Bọn cướp lập tức hoan hô vui mừng nói: “Pháp sư vẫn chưa tọa hóa!”. Chúng đến bên ông vái lạy mà sám hối. Huyền Trang khai thị Phật Pháp và khuyên bảo chúng rằng đừng vì lợi ích nhất thời mà gieo xuống hậu quả khôn cùng. Kết quả, tất cả bọn cướp đều vứt bỏ hung khí, từ bỏ sát nhân, thụ ngũ giới và quy y chính đạo.
Trong suốt 17 năm đằng đẵng, Huyền Trang đã đi qua những nước Yết Lăng Già (Nam Ấn Ðộ), Nam Kiền Tất La (Trung Ấn Ðộ), Lang Yết Là (cực Tây Ấn Ðộ), v.v. Trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ, trên đường trở lại Trường An ông đã mang về 150 Xá Lợi tử, tượng Phật, cùng với 657 bộ Kinh thư.
Khi qua sông Tín độ (Indus), Huyền Trang cưỡi voi lội qua, còn kinh sách và hành lý thì đi bằng thuyền lớn. Một cơn bão nổi lên, kinh sách trong thuyền bị rơi mất 50 bộ, và những hạt giống, hoa quả lạ ở Ấn Ðộ cũng rơi theo. May mắn là khi ấy, nhà vua nước Già-thấp-di-la (Kapica) đã đem quân ra đón giúp Huyền Trang thoát nạn, và cho người chép lại những bộ kinh bị mất.
Trước khi Huyền Trang xuất khởi Tây Trúc, ông đã đến chỗ cây Tùng cổ thụ ở chùa Linh Nham. Đứng ở sân chùa, ông vuốt ve nhành cây, và nói: “Ta sẽ lên đường sang Tây Trúc thỉnh chân kinh, vì vậy con hãy luôn hướng về phía tây mà sinh trưởng. Khi ta lấy được chân kinh quay trở về, con hãy quay đầu và hướng về phía đông, để các đệ tử của ta biết rằng ta đang trên đường trở về”.
Sau khi Huyền Trang lên đường, cành cây Tùng đã theo đúng hướng tây mà sinh trưởng, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Rồi một năm kia, cành Tùng đột nhiên quay về phía đông, các đệ tử vui mừng reo: “Sư phụ sắp trở về”. Các đệ tử vội lên đường để đi đón Huyền Trang. Nhà sư đã thực sự trở về từ Phật quốc, mang về theo chân kinh mong chờ. Người đời sau phong cành cây Tùng này là ma đính tùng.
Video: Huyền cơ ẩn sau những nhân vật được lựa chọn trong Tây Du Ký