Làm người chính trực, trên không thẹn với Trời, dưới không hổ với Đất, trong tâm kính sợ, thiên thượng ắt sẽ cấp cho hồi báo sâu dày.
Kính sợ, ý chỉ tâm tình có cảm nhận nể sợ và tôn kính khi đối diện với sự quyền uy, trang nghiêm hoặc sự cao thượng.
Chu Hi từng nói: “Nhưng kính có hàm nghĩa gì, chỉ như tương tự chữ sợ, kính không phải có nghĩa là ngồi ngay đơ ra đó, tai không nghe, mắt không nhìn, hoàn toàn không hay biết gì, mà chỉ cần thu lại thân và tâm, chỉnh tề thuần nhất, không phóng túng bừa bãi, chính là Kính”.
Trong “Vi lô dạ thoại” (Chuyện kể bên bếp lửa) đã nói: “Con đường lập thân sao phải khốn cùng, chỉ đạt được một chữ Kính, mọi chuyện đều liền có thể điều chỉnh lại”.
Đối nhân xử thế, chỉ cần khắp nơi còn có kính ý, liền có thể xử lý gỡ rối mọi đầu mối sự việc.
Con người, không thể không có lòng kính sợ
Kỳ thực, người Á Đông chúng ta cũng chưa bao giờ thiếu lòng kính sợ. Khổng Tử nói: “Quân tử có ba nỗi sợ: sợ thiên mệnh, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân”.
Hàn Dũ đời Đường trong “Hạ thái dương bất khuy trạng” viết: “Bệ hạ kính nể thiên mệnh, khắc kỷ tu thân”. Từ xa xưa, các dân tộc Á Đông trong tâm luôn lưu giữ truyền thống kính sợ. Ví như, kính sợ trời cao, dân coi cái ăn quan trọng như trời, cho nên sẽ kính sợ ông Trời.
Ông Trời nhân từ, đức dày nâng đỡ vạn vật. Ông Trời công bằng, trừng ác khuyến thiện. Ông Trời cũng nghiêm khắc…, vì thế mà nói: Người đang làm Trời đang nhìn, trên đầu ba thước có thần minh. Chớ thấy việc ác nhỏ mà làm, đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm; chuyện trái lương tâm không được làm, chuyện không kiêng nể gì cũng không được làm.
Việc buôn bán thì niêm yết giá thực, mua bán công bằng. Việc học hành, nghiên cứu học vấn, nói có sách mách có chứng. Làm quan, không đoạt tiền của dân, không gây tổn thương người vô tội. Làm người, không bán đứng bạn bè, không làm chuyện táng tận lương tâm. Chính là dựa vào cái tâm kính sợ này.
Con người một khi không có tâm kính sợ, thường trở nên không còn kiêng nể gì nữa, hoành hành ngang ngược, vô pháp vô thiên, cuối cùng nhận lấy quả đắng.
Giữ tâm kính sợ, học được khiêm tốn, nhún nhường
Làm người chính trực, trên không thẹn với Trời, dưới không hổ với Đất, trong tâm kính sợ, thiên thượng sẽ cấp cho hồi báo sâu dày.
Tâm kính sợ xuất phát từ tín ngưỡng của con người, người trong tâm có kính sợ hoặc e sợ, mới có thể vừa tôn trọng vừa kính phục, mới có thể ước thúc ngôn hành cử chỉ của bản thân. Những người luôn kính sợ thường biểu hiện hết sức khiêm nhường.
Cố nhân xưa kia rất tin vào “mệnh”. Người xưa đại đa số đều kính Thiên tín mệnh, tức kính trời và tin vào số mệnh, cho rằng “sống chết có số, phú quý do trời”; “đại phú nhờ mệnh, tiểu phú nhờ cần”, “một đời đều là mệnh, nửa điểm không do người”. Ai nấy đều có mệnh, và vận mệnh mỗi người chẳng ai giống ai. Mạnh Tử từng nói: “Mạc chi vi nhi vi giả, thiên dã; mạc chi trí nhi chí giả, mệnh dã“; tạm dịch là: Không phải sức người làm được mà vẫn có thể làm được, đây chính là Thiên ý; không phải sức người có thể cầu được mà lại có được, đây chính là vận mệnh.
Chuyện tốt chuyện xấu đều được người xưa coi là “mệnh”. Trước khi làm việc gì, đều sẽ suy xét một phen, hiểu rằng ngẩng đầu ba thước có thần minh, vì thế mà không dám làm việc xấu xa ghê tởm.
Dương Chấn thời Đông Hán là vị quan công chính liêm khiết chính trực, không mưu cầu tư lợi, được người dân ca tụng. Có lần, ông từ Kinh Châu đến quận Đông Lai (nay là Yên Đài, Uy Hải, Sơn Đông) làm thái thú, trên đường có đi qua huyện Xương Ấp. Huyện lệnh của Xương Ấp khi ấy là Vương Mật – là người mà Dương Chấn đề bạt khi ông đang làm Thứ Sử Kinh Châu. Vương Mật nghe nói Dương Chấn đi ngang qua địa phương, vì để báo đáp ân tình của Dương Chấn năm xưa đã đề bạt mình nên đã đã đích thân ra ngoại thành nghênh tiếp ân nhân.
Buổi tối, Vương Mật đến bái kiến Dương Chấn, lúc cáo từ, Vương Mật đột nhiên từ trong áo lấy ra vàng bạc đặt lên bàn, cung kính nói: “Hiếm khi được ân sư hạ cố, tôi đã chuẩn bị chút lễ nhỏ để báo ơn cất nhắc của ân sư”.
Dương Chấn nói: “Trước đây chính là vì tôi biết ông là người có học vấn, nên mới đề bạt ông, hy vọng ông làm một vị quan thanh liêm. Hồi báo tốt nhất đối với tôi chính là ông hãy ra sức phục vụ đất nước, không cần đưa cho tôi bất cứ thứ gì cả”. Vương Mật vẫn thành khẩn nói: “Giữa đêm canh ba, sẽ không ai biết đâu, xin ngài hãy nhận lấy”.
Dương Chấn lập tức trở nên vô cùng nghiêm túc, nghiêm sắc mặt nói: “Ông nói gì vậy, trời biết, đất biết, tôi biết, ông biết! Ông sao có thể nói không có ai biết được? Không ai ở đây, lẽ nào lương tâm của ông và tôi liền mất sao?”
Vương Mật cảm thấy quá hổ thẹn, liền vội vàng mang vàng bạc trở về. Đây chính là cố sự “Dương Chấn cự kim” nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
Câu nói “trên đầu ba thước có thần minh”, chính là nói về sự kính sợ trong lương tâm của bản thân. Người có thể giữ tâm kính sợ, mới có thể nói đến lương tâm, nghĩa vụ, đạo đức, mới có thể hình thành ý thức trách nhiệm, sự cống hiến, tinh thần dân tộc, đây mới là cảnh giới cao nhất của một con người.
Cái gì cũng không sợ, đó mới là đáng sợ nhất
Trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, khi miêu tả Vương Hy Phượng (Phượng ớt), nói rằng nàng “bày mưu tính kế quá thông minh, trái lại lại mưu hại đến tính mạng chồng”, cái chết của nàng chính là vì thông minh thái quá.
Rất nhiều người cho rằng Vương Hy Phượng suốt đời thua thiệt vì giở trò khôn vặt, nàng sai lại càng sai, chính là ở chỗ không hiểu biết nên không sợ, gan lớn đến mức cái gì cũng không sợ.
Đương nhiên, kết cục này và gia giáo trong nhà nàng là có mối liên hệ nhân quả. Thời bé, cha mẹ đối với nàng có thể nói là con cưng muốn gì được nấy, sẵn sàng đáp ứng, chứ không răn dạy con, do vậy mà sau này dưỡng thành nên một nàng Vương Hy Phượng ngông nghênh ngang ngược, tính cách độc đoán, tự phụ.
Mặt khác, trong nhà không để nàng được giáo dục văn hóa truyền thống, đường đường là tiểu thư Vương phủ đại gia đất Kim Lăng, lại có thể không biết chữ. Không đọc sách thánh hiền bách gia chư tử, giáo huấn của thánh nhân hoàn toàn không biết, đối với nhân lễ nghĩa trí tín không có bao nhiêu khái niệm, khuyết thiếu chuẩn tắc đạo đức cơ bản về đối nhân xử thế.
Không rèn luyện đạo đức, ước thúc bản thân, dĩ nhiên là sẽ trở nên rất đáng sợ, giống như mãnh hổ xổng chuồng dã tính ngang tàng khó thuần phục. Cái này còn có gì là tâm kính sợ?
Người không có tín ngưỡng liền khó có tâm kính sợ, không có kính sợ lại không gì không dám làm. Phàm là người biết sợ, tâm và thân đều ngay chính, ngôn từ có chuẩn mực, xích mích biết điểm dừng, có đôi lúc vượt quy củ, cũng an tâm không vượt ra khỏi phép tắc quá nhiều.
Gan mật quá lớn, lại không biết tiến lùi, chừng mực. Sa chân bước nhỏ thì lầm lỡ cuộc đời, quá đà bước lớn thì có khi mất mạng.
Trong tâm kính sợ, không lo không sợ
Tăng Quốc Phiên viết trong Gia thư gửi con trai thứ Tăng Kỷ Trạch rằng: “Kính thì không kiêu ngạo, không biếng nhác”.
Người mà trong tâm biết kính sợ mới có thể làm các việc một cách thận trọng; mới có thể có ý niệm cẩn thận dè chừng, cũng mới có thể ở trong xã hội rối ren phức tạp biến hóa khó lường, mà không bận lòng, không kiêu căng, xốc nổi, không bị tư tâm quấy nhiễu, không vì danh lợi cá nhân mà mệt mỏi. Người như vậy mới có thể luôn luôn khiêm tốn, bình thản.
Trong đối nhân xử thế, bản thân càng là người mạnh mẽ thì lại càng cần khiêm nhường, bởi vì khiêm nhường chính là tâm tồn kính sợ. Thời khắc tồn hữu tâm kính sợ, lại sẽ không phải lo lắng hay sợ hãi. Nếu là người dũng cảm mạnh mẽ, hãy bồi dưỡng cho mình tâm kính sợ, tôn trọng người khác.
Chỉ khi chúng ta tâm tồn kính sợ, mới có thể phán đoán, phân tích đúng quy luật sự vật, mới có thể chậm rãi tiến bước trên con đường đời gian nan cay đắng này, cuộc đời mới có thể thu được thành tựu.
Theo Soundofhope
Mây Trắng biên dịch