Đại Kỷ Nguyên

Đời là bể khổ, nhưng có ‘6 chữ vàng’ giúp bạn sống ung dung (P.1)

Cuộc đời thanh đạm cũng là hưởng thụ, hưởng thụ sự yên tĩnh thong dong. Ung dung tự tại, mà lại chứa đựng trí tuệ vô cùng vô tận. Chỉ 6 chữ dưới đây đã tiết lộ cho chúng ta rất nhiều điều.

Khổng Tử đã từng nói: “Chi lan sống nơi rừng sâu, không bởi không người biết đến mà không thơm. Người quân tử tu Đạo lập đức, không bởi bần cùng mà thay đổi tiết hạnh”.

Cuộc đời thanh đạm là một loại hưởng thụ, hưởng thụ yên tĩnh thong dong, sống trong cảnh giới thoát tục, mà lại chứa đựng trí tuệ vô cùng vô tận. Đó chính là: “Trí tuệ tích lũy từng ngày, thông huệ tàng chứa ở tâm”.

Nhưng con người sống chính là bôn ba vì vận mệnh, mệt mỏi vì cuộc sống, vì truy cầu danh lợi mà so đo tính toán, cho nên người vui lòng với cảnh tịch mịch, đạm bạc danh lợi thì rất ít.

Nội hàm 6 chữ sau đây, thực sự là một phong thái sống ung dung tự tại, không mê mờ.

1. Nhẫn (忍)

Trong chữ Nhẫn có một lưỡi dao.

Viết thư ngàn dặm bởi tường cao,

Nhường ba thước đất hại gì sao?

Đại học sỹ Trương Điện Anh đời Thanh khi làm quan ở kinh thành, một hôm ông nhận được phong thư của gia đình. Sau khi xem thư, ông hiểu rõ nguyên do sự tình: Thì ra người hàng xóm xây bức tường có lấn ra ngoài 3 thước (khoảng 1 mét), nhưng người nhà Trương Điện Anh không chịu nhường, do đó hai bên tranh chấp mãi. Bất lực, người nhà mới viết thư cho Trương Điện Anh, hy vọng mượn thế lực của ông để dọa hàng xóm, để anh ta dừng chiếm đất xây tường. Trương Điện Anh lập tức viết thư trả lời rằng:

Viết thư ngàn dặm bởi tường cao,

Nhường ba thước đất hại gì sao?

Vạn Lý Trường Thành nay còn đó,

Thủy Hoàng năm ấy giờ nơi nao?

Người nhà nhận được thư, lập tức nghe theo ý Trương Điện Anh, nhường cho hàng xóm 3 thước đất. Sau khi hàng xóm biết được việc này, anh ta hối hận sâu sắc, cũng chủ động nhường ra 3 thước đất, thế là thành một cái ngõ nổi tiếng có tên “Ngõ 6 thước”.

***

Người có tấm lòng rộng mở ôm chí lớn mới biết nhẫn, mới buông bỏ được những phân tranh vô vị trước mắt.

Người có tầm nhìn rộng lớn cao xa mới có thể nhẫn, để thưởng thức ánh sao sáng mỹ lệ trên bầu trời.

Nhẫn không phải là hèn nhát, càng không phải là vô dụng. Nhẫn là sức mạnh, là tư tưởng, là từ bi và là trí huệ.

Nhẫn không phải là hèn nhát, càng không phải là vô dụng. Nhẫn là sức mạnh, là tư tưởng, là từ bi và là trí huệ. (Ảnh: yiweifen.com)

2. Hòa (和)

Thiên Địa hòa, vạn vật sinh

Trăng thu rải ánh sáng vàng

Mặt hồ phẳng lặng ánh quang sáng ngời.

Lạn Tương Như đi sứ nước Tần, giữ được quốc thể, lập công lớn. Triệu Huệ Văn Vương hết sức tín nhiệm Lạn Tương Như, phong làm Thượng khanh, địa vị cao hơn đại tướng Liêm Pha.

Liêm Pha không phục, nói với các môn khách: “Ta là đại tướng của Triệu, lập bao công lao trên chiến trường. Lạn Tương Như thì có gì ghê gớm, chỉ dựa vào 3 tấc lưỡi mà lại vượt lên đầu ta. Nếu ta gặp hắn, ta sẽ cho hắn biết tay”.

Chuyện đến tai Lạn Tương Như, ông liền cáo bệnh không vào triều.

Một hôm, Lạn Tương Như có việc cùng môn khách ngồi xe đi ra ngoài. Từ xa thấy có xe ngựa của Liêm Pha đi tới, Lạn Tương Như vội bảo người đánh xe rẽ vào một ngõ hẻm để tránh đường.

Việc đó khiến các môn khách của Lạn Tương Như rất bực bội, cho rằng Lạn Tương Như hèn nhát.

Lạn Tương Như hỏi họ: “Các ông xem, giữa tướng quân Liêm Pha và Tần Vương thì ai có thế lực lớn hơn?”.

Mọi người đều nói: “Tất nhiên là Tần Vương có thể lực lớn hơn”.

Lạn Tương Như nói; “Đúng như vậy. Chư hầu trong thiên hạ đều sợ Tần Vương. Thế mà ta dám mắng thẳng vào mặt Tần Vương, thế thì sao ta lại sợ tướng quân Liêm Pha? Ta chỉ nghĩ rằng, nước Tần lớn mạnh không dám xâm phạm nước Triệu, bởi vì có ta và tướng quân Liêm Pha. Nếu hai người chúng ta bất hoà, nước Tần biết tin, sẽ nhân cơ hội lại xâm phạm nước Triệu. Chính vì điều đó mà ta phải nhún nhường”.

Có người kể lại cho Liêm Pha. Liêm Pha rất hổ thẹn, liền để mình trần, mang roi gai trên lưng, tới nhà Lạn Tương Như nhận tội. Ông nói với Lạn Tương Như: “Tôi là một kẻ lỗ mãng thiển cận, bụng dạ hẹp hòi, lại được ngài rộng lượng như vậy, tôi rất lấy làm hổ thẹn, xin tình nguyện chịu sự trách phạt của ngài”.

Lạn Tương Như vội đỡ Liêm Pha dậy, nói: “Hai chúng ta đều là đại thần của nước Triệu. Tướng quân đã hiểu ra, tôi vô cùng cảm kích, đâu dám nhận lễ của tướng quân nữa”.

Hai người đều cảm động rơi nước mắt. Từ đó, họ trở thành bạn bè thân thiết.

Liêm Pha để mình trần, mang roi gai trên lưng, tới nhà Lạn Tương Như nhận tội. (Ảnh: baidu.com)

***

Trời cao chim thỏa sức bay, biển rộng cá cứ vẫy vùng, quân tử hòa đồng mà không bè phái.

Hài hòa với bản thân, coi nhẹ danh lợi thì tâm an định bình ổn.

Hài hòa với người khác, tâm can sáng tỏ chiếu lòng nhau, tình tự thắm thiết.

Vợ chồng hài hòa, hiểu nhau cùng gìn giữ, ấm áp tình.

Gia đình hài hòa, sự nghiệp hưng thịnh phúc bất tận.

Thiên hạ hài hòa, may mắn phúc lành khắp càn khôn.

3. Khổ (苦)

Người khổ tâm, Trời chẳng phụ

Đời Xuân Thu, hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê, vua Việt là Câu Tiễn phải mình trần sang lạy vua Ngô là Phù Sai xin hàng. Ngô vương bắt vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin, có quan Tướng Quốc là Phạm Lãi theo hầu. Cả ba đều bị giam trong ngục đá.

Hằng ngày vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi phải cắt cỏ, hốt phân ngựa, gánh nước rửa dọn chuồng ngựa, kiếm củi nấu cơm… Suốt thời gian ba năm, chúa tôi sống một cách vô cùng vất vả cực nhọc, nhưng vẫn bền chí đợi thời. Một hôm vua Ngô đau, Câu Tiễn nghe theo lời của Phạm Lãi là chịu nếm phân của vua Ngô để được vua Ngô tin kẻ hàng giữ dạ trung thành. Nhờ đó mà cả ba được phóng thích về nước.

Được trở về cố quốc, nhớ đến nỗi thất bại nhục nhã và bị giam cầm làm nô lệ, Câu Tiễn liền gắng công xây dựng đất nước, chờ đợi thời cơ để rửa hận. Câu Tiễn tôn hiền đãi sĩ, kính người già, thương kẻ nghèo, đối xử trăm họ như anh em nên được mọi người mến phục. Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Vương phi Câu Tiễn cũng chăm việc dệt cửi. Cùng đám dân chia sự lao khổ, ăn mặc rất tiết kiệm.

Câu Tiễn cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm. Khi nào buồn ngủ thì lấy cỏ lục (rau răm) xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở. Chân lạnh muốn co thì dầm nước lạnh. Mùa đông lạnh thì ôm giá. Mùa hè nóng nực thì ngồi bên lửa. Bỏ cả giường nệm, lấy gai lấy củi lót nằm. Quả mật luôn luôn treo ở chỗ ngồi, chỗ nằm, thỉnh thoảng lại nếm một ít như để nhắc lại nỗi tủi nhục, khổ đau.

Cuối cùng nước Việt báo được thù, thôn tính nước Ngô, vua Ngô tự tử.

Việt vương Câu Tiễn. (Ảnh: wikipedia.org)

***

Bảo kiếm sắc bén do mài giũa mà thành. Hoa mai thơm dịu do chịu khổ trong giá lạnh.

Đời người muôn vị, khó nói nhất là khổ cực đắng cay, khó chịu đựng nhất cũng là cực khổ.

Cuộc đời thường không như ý, bôn tẩu chốn hồng trần cần dùi mài rèn giũa.

Ai mà chẳng bước ra từ khổ cực?

Ai dám nói mình chưa biết vị khổ đau?

Ai cũng sẽ khổ một chập, nhưng sẽ không khổ cả đời.

(Còn tiếp)

Nam Phương

Nguồn tham khảo:

 

Exit mobile version