Các thương nhân cổ đại dùng cần kiệm, trí huệ, gây dựng nên tài sản kếch xù, giàu có một phương. Họ thích làm việc thiện, tạo phúc cho bách tính và xã hội, cũng làm cho công việc làm ăn của họ ngày càng thịnh vượng hơn.
Không sợ gian khổ, nếm trải tận hết mọi cái khổ kinh thương
Huy Châu là tên một phủ cũ ở tỉnh An Huy, Trung Quốc; nơi đây có một bài ca dao lưu truyền đã từ rất lâu: “Kiếp trước không tu, sinh tại Huy Châu, mười ba mười bốn tuổi, ném ra ngoài một cái”. Rất nhiều thương gia Huy Châu lập nghiệp bằng việc buôn bán đường dài, cho nên được gọi là “Lạc đà Huy Châu”, cái khổ cực trong đó thì đương nhiên khỏi cần phải nói.
Trong mỗi phân đoạn kinh thương, đều cần phải nỗ lực lao động. Kinh thương ý nghĩa là phiêu bạt, hoặc là bôn ba nơi núi non trùng điệp, hoặc là trường kỳ rong ruổi trên thuyền, lênh đênh theo dòng, gặp được lữ quán thì nghỉ tạm, ba bữa cơm trà rồi nhắm mắt bầu bạn với âu lo.
Dặm đường kinh thương còn tràn đầy rủi ro. Không chỉ có thể bị thua lỗ, thâm hụt, đến cả sinh mệnh của bản thân cũng có khi gặp bất trắc, nguy hiểm. Muốn làm giàu thì phải tôi rèn ý chí “Lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu” (Gân cốt khổ cực, thân thể đói khát).
Trong thời kỳ Minh Thành và Chính Đức, thương nhân Hưu Ninh là Tra Nham Chấn cả đời kinh thương, bôn tẩu từ Lĩnh Nam đến đất Bắc, chịu đủ nỗi khổ cực nóng nực rét mướt quanh năm suốt tháng, chạy ngược chạy xuôi Ngô Việt Kinh Tương, liên tiếp trải qua phong ba nguy hiểm, có thể nói là đã nếm trải tận hết mọi cái khổ kinh thương. Nhưng Tra Nham Chấn không sợ gian khổ, cuối cùng trở thành một đại thương nhân nổi tiếng.
Những năm thời Gia Tĩnh, Đại Minh, thương nhân huyện Hấp là Hứa Thượng Chất gồng gánh hàng hóa từ Giang Nam đi tới Hồ Bắc, rồi đến Tứ Xuyên, trên đường trải qua bao nhiêu khó khăn nguy hiểm. Những năm cuối đời, ông xúc động nói: Nhớ năm đó lúc ở Tứ Xuyên, trên đường bị lạc mất phương hướng, lang thang quanh quẩn trong thung lũng trùng điệp, lê bước trong băng tuyết, cái cảm giác sợ hãi sởn cả tóc gáy đến giờ vẫn còn nguyên vẹn như lúc đó vậy.
Thương nhân Huy Châu triều Thanh là Uông Khả Việt cũng quanh năm bôn tẩu làm ăn bên ngoài, màn trời chiếu đất, cái ăn cái mặc đều rất thiếu thốn, chỉ có ôm giữ một tinh thần không mệt mỏi cần cù gian khổ chăm chỉ làm việc, từng trải trong mưa gió mà thành tựu sự nghiệp. Những thương nhân này đều tự mình lao đi buôn bán, chứ không ngồi trong nhà rồi giao những việc nặng nhọc vất vả cho người làm thuê. Cho dù không ra ngoài, đối với tính toán, điều hành, kinh doanh, quản lý, cũng hao tâm tổn trí, quản lý sát sao, nửa điểm cũng không thể buông lỏng.
Cái siêng năng, cần mẫn của kinh thương thời nhà Tấn cũng khá đặc biệt, họ đi Tây khẩu (đi sang phương Tây), xuyên qua thảo nguyên, băng qua sa mạc, đi buôn bán hàng ngàn dặm trường. Bất kể là mùa hè nóng nực, mặt trời nắng cháy trên đầu, cát nóng bỏng dưới chân, mấy ngày không gặp nguồn nước; hay là mùa đông gió lạnh gào rú thổi ngược, trên đường đi có cả người chết vì tê cóng, rét buốt; mùa xuân và mùa thu, bão cát ập tới, trời đất mù mịt lấp hết đường đi, chôn vùi thân người; họ vẫn không nản chí.
Hiệu buôn Đại Thịnh Khôi do người Sơn Tây thời nhà Thanh dựng nên mở ra con đường giao thương giữa Nga – Mông Cổ. Thương hiệu Đại Thịnh Khôi vào thời cực thịnh có đến sáu, bảy ngàn công nhân, thương đội lạc đà gần 20.000. Có bao nhiêu người đã đạp ngàn dặm đường ăn gió nằm sương chịu đựng vất vả mà gây dựng nên thương hiệu Đại Thịnh Khôi trứ danh Trung Quốc.
Giàu mà không xa hoa, cần cù tiết kiệm là nguyên tắc
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, cần kiệm là lời giáo huấn lâu đời nhất: “Khắc cần ư bang, khắc kiệm ư gia” (Nên chuyên cần ở việc nước, nên tiết kiệm ở việc nhà). Mà trong các thương gia thành công qua các thời đại, vẫn luôn thông suốt tinh thần “Bất cần bất đắc, bất kiệm bất phong” (Không chuyên cần thì không được gì, không tiết kiệm thì không thể giàu có).
Đạo buôn bán của thương nhân cổ đại thể hiện ở những câu thơ cổ phong: “Thành tín thị vi thương chi đức” (Thành tín chính là cái đức trong buôn bán), “Cần kiệm thị kinh thương chi bản” (Cần kiệm chính là vốn liếng của buôn bán), “Tiến thủ thị kinh thương chi đạo” (Tiến thủ là cái đạo của buôn bán). Hai đời nhà Minh và nhà Thanh, thương nghiệp phát triển hơn bao giờ hết, càng không hiếm thương nhân giữ vững nguyên tắc cần kiệm.
Mặc Tử nói: “Cường tất phú, bất cường tất bần” (Cường ở đây chỉ cường lực lao động), “Lại kỳ lực giả sinh, bất lại kỳ lực giả bất sinh” (Người dựa vào sức mình thì sống, người không dựa vào sức mình thì chết). Thái sử công Tư Mã Thiên trong “Sử ký – Hóa thực liệt truyện” cũng nói: “Vô tài tác lực, thiếu hữu đấu trí, ký nhiêu tranh thời” (Khi người ta không sẵn tiền của, thì phải dùng sức người để kiếm sống; khi sức lực, tài lực không đủ thì phải dựa vào trí tuệ, đấu trí; khi đã giàu có thì phải biết nắm bắt tranh thủ thời cơ). Đây có thể nói là bộ tam xe pháo mã của thương nhân làm giàu, bảo trì tinh thần lập nghiệp.
Cùng với cần mẫn (Cần), tiết kiệm (Kiệm) cũng là một điều trọng yếu trong thương đạo. Cần để tăng thu nhập, Kiệm để tiết kiệm chi tiêu, Cần mà còn Kiệm nữa thì mới có thể đầy đủ, phong phú về Tài (tài lực), Trí (trí lực), Doanh (doanh thu). Nếu không, dùng mà không tiết kiệm, cũng như bình rượu bị rò rỉ mà không vá kín lại, chắc chắn gây nên thất thoát tài nguyên, có thể thấy được Kiệm vô cùng quan trọng. Cần và Kiệm đều không thể bỏ qua.
Ngay từ thời kỳ Tiên Tần (giai đoạn lịch sử của Trung Quốc trước khi nhà Tần thống nhất) đã rất nhiều người tán thành “Kiệm” mà không đồng ý với “Xỉ” (xa xỉ, hoang phí). Khổng Tử nói: “Lễ, dữ kỳ xa dã, ninh kiệm” (Lễ cần ở tiết kiệm hơn là xa hoa). Mặc Tử nói: “Tiết kiệm tắc xương, dâm dật tắc vong” (Tiết kiệm thì hưng vượng, phóng túng thì suy vong). Sùng “Kiệm” chính là nhận thức chung của các nhà tư tưởng cổ đại, nhất là tư tưởng sùng “Kiệm” của Nho gia đã có ảnh hưởng lớn hơn đối với hậu thế.
Các nhà kinh doanh thành công bản thân đầu rất tiết kiệm, giản dị. Bạch Khuê thời Chiến Quốc có danh tiếng là “Ông tổ thương nghiệp”. Tư Mã Thiên trong “Hóa thực liệt truyện” tán dương Bạch Khuê tuy là thương gia giàu có nhưng ngày hai bữa ông ăn uống đạm bạc, nhịn hết món ngon vật lạ, phục sức như hạng bần cùng, hòa mình làm lụng vất vả cùng lũ tôi tớ nô bộc của mình.
“Sử ký – Liệt truyện – Hóa thực liệt truyện” còn ghi chép lại, tổ tiên họ Nhâm ở Tuyền Khúc, ngày trước làm quan giữ kho lương ở Độc Đạo. Sau khi nhà Tần bại vong, hào kiệt cùng tranh nhau lùng sục tranh đoạt vàng bạc châu báu. Riêng Nhâm một mình đào hầm chôn giấu hết kho lương. Về sau, quân Hạng Vũ cầm cự với quân Lưu Bang ở Hành Dương, nông dân không cấy trồng gì được, giá thóc vọt lên tới một vạn bạc một thạch, thế là chẳng mấy chốc đống châu báu từ các hào kiệt từ từ mò về hết trong tay nhà họ Nhâm.
Đang lúc các nhà hào phú khác lo ganh đua chưng diện sắm sửa xa hoa, thì nhà họ Nhâm sống đạm bạc, tiết kiệm, chăm lo nông điền, nuôi gia súc. Khi thiên hạ đổ xô tìm giá đất rẻ nhất mà tranh mua, thì nhà họ Nhâm chuyên môn chọn đất nào tốt, giá trị nhất. Nhờ thế mà dòng họ cứ giàu mãi nhiều đời. Nhưng ông Nhâm bắt cả dòng họ thề suốt đời không ai được ăn thịt ngoài loại gia súc do nhà chăn nuôi được, không ai được mặc áo có chất liệu ngoài loại vải bông do đất nhà làm ra. Không ai được chè chén rượu thịt khi chưa mãn hạn công vụ. Nhờ phép tắc gia đình gương mẫu, nhà họ Nhâm trở nên vừa giàu có vừa được nhà vua tôn trọng.
Kế tục những thương nhân giàu có này, lề thói ăn tiêu tiết kiệm được duy trì liên tục qua các đời con cháu.
Đem giáo dục cần kiệm dung nhập vào gia học và gia quy
Thương gia nhà Tấn còn đem giáo dục cần kiệm dung nhập vào gia học và gia quy, dựa vào cần kiệm làm giàu và trị gia. Thẩm Tư Hiếu người thời Minh, trong “Tấn lục”, là một thương nhân thực hành tiết kiệm, tác phong chất phác, mặc dù gia tài vạn quan tiền, ăn mặc cũng không khác người bình thường là bao, cố gắng dồn tích lại thì sẽ nhiều lên, tụ tài, tích lũy vốn liếng.
Mã thái phu nhân của đại thương gia nhà họ Ký ở huyện Giới Hưu quản lý gia đình rất nghiêm khắc. Không chỉ bản thân sinh hoạt giản dị mà còn yêu cầu con cái phải “tự phụng kiệm ước” (ăn tiêu tiết kiệm), nhưng đối đãi người khác lại rất hào phóng. Dưới sự giáo dục nghiêm khắc của Mã thái phu nhân, đời sau mặc dù phú quý hoặc làm quan, cũng không một ai thân mặc áo lông xa xỉ, cưỡi ngựa về quê phô trương danh vọng. Nhà họ ăn uống tằn tiện, đãi khách lại cực kỳ hậu hĩnh.
Mã thái phu nhân bình thường khuyên răn: “Tích phúc thì phúc tự sâu dày”. Vì vậy con cháu các gia đình ở châu Ký (tỉnh Hà Nam ngày nay) “sống trong phú quý mà vẫn có thể ăn cơm thô mà gắng sức”.
Không ít thương gia Huy Châu cũng đem tiết kiệm thêm vào gia pháp, tộc quy, dùng để khuyên răn con cháu trong gia tộc. Như “Minh châu Ngô thị gia điển” và “Hoa dương Thiệu thị gia phả” cũng đều có ghi chép lại.
Thương nhân buôn bán muối lớn Bảo Chí Đạo nắm giữ số tiền hàng vạn, nhưng phụ nữ, trẻ con lớn bé trong nhà phải tự mình dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, trước cửa không có xe ngựa, trong nhà không mời gánh hát. Bảo Chí Đạo ở Dương Châu làm nghề buôn muối, trở thành một nhà lãnh đạo trên thị trường trong 20 năm, cũng vào hạng tai to mặt lớn trong thương trường, nhất cử nhất động của ông mỗi thời khắc đều ảnh hưởng đến những người khác. Dưới ảnh hưởng của ông, tác phong sống xa xỉ ở Dương Châu đã được thay đổi đáng kể.
Cứu tế thế nhân, giúp ích cho đời, thương nghiệp ngày càng hưng thịnh
Rất nhiều thương nhân cổ đại sau khi kinh doanh phát tài, phát tâm cứu tế thế nhân, giúp ích cho đời. Không chỉ giỏi về tụ tài mà còn giỏi về tán tài. Họ mạnh mẽ ủng hộ cho việc dùng tiền làm điều nhân nghĩa, trọng nghĩa khinh tài.
Nho thương thủy tổ Đoan Mộc Tử Cống mặc dù thân đáng ngàn vàng, nhưng vẫn có thể “Phú nhi bất kiêu” (Giàu mà không kiêu), “Phú nhi hảo lễ” (Giàu mà biết cư xử). Chẳng những kết giao với kẻ giàu mà còn giúp đỡ, thăm hỏi người nghèo. Cho nên từ trên là vua cho đến dưới là thường dân đều tán tụng ông là người nhân đức.
Thương gia thời nhà Minh là Hứa Thượng Chất cho rằng, đem tài phú dùng cho việc lễ nghĩa là giỏi về dùng tiền, cho nên ông chủ trương cần phải vì việc nghĩa mà dùng tiền, chớ nên keo kiệt. Đại học sỹ thời nhà Minh là Hứa Quốc Tăng nói: “Các quận đông nam xưa kia luyện quân xây thành, các hộ khách hiến hết tài sản cho quan quân, 10 người thì 9 người là thương gia Huy Châu”.
Phú thương Huy Châu đa số gần gũi thân thiết, rộng rãi cứu tế giúp rộng mọi người, họ cứu giúp người nghèo, giúp những người lữ hành tha phương, cứu vớt che chở cho kẻ yếu hèn… Những việc hành nghĩa này được ghi lại rất nhiều trong các tác phẩm văn chương và trong các ghi ghép địa phương vào đời nhà Minh, Thanh. Những năm triều đại Ung Chính triều Thanh, thương nhân huyện Hấp, An Huy là Dĩ Chính: “Cứu đói, giảm nợ, trợ giúp việc tang, định hôn, thí quan, yểm cách, xây bến đò, sửa cầu, mấy chục năm nỗ lực thực hiện không biết mệt mỏi”.
Các thương nhân cổ đại dùng cần kiệm, trí huệ, gây dựng nên tài sản kếch xù, giàu có một phương. Họ thích làm việc thiện, tạo phúc cho bách tính và xã hội, cũng làm cho công việc làm ăn của họ ngày càng thịnh vượng hơn. Đây chính là điều mà họ gọi là “Ra ơn cho người, mà danh ngày càng cao, thương nghiệp ngày càng hưng thịnh, gia đạo ngày càng thịnh vượng”.
Hy vọng rằng, bài viết này sẽ mang lại phần nào nguồn cảm hứng kinh doanh cho các độc giả.
Theo Soundofhope
Mây Trắng biên dịch