Từ xưa đến nay, chúng ta có thể thấy rõ rằng bất kể trường phái, lĩnh vực nào cũng đều tôn sùng, đề cao “tĩnh khí”. Như vậy, ắt hẳn tĩnh khí phải có tầm quan trọng rất lớn?
Chúng ta có thể thấy trong ba gia là Phật gia, Đạo gia, Nho gia đều có nhắc đến “tĩnh khí”. Trong Phật gia có câu: “Do giới nhi định, định năng sinh tuệ” (tạm dịch: từ giới mà có thể định, định có thể sinh trí tuệ). Đạo gia có câu: “Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh chi từ thanh; thục năng an dĩ cửu, động chi từ sinh.” (tạm dịch: Ai có thể làm được cái đục yên tĩnh lắng dần xuống thành trong? Ai có thể làm cho cái yên tĩnh kéo dài, dần trở nên động?” Nho gia: “Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc.” (tạm dịch: Biết đến cùng rồi mới định được, định mới có thể tĩnh, tĩnh rồi mới có thể suy nghĩ tinh tường, suy nghĩ tinh tường rồi mới có thể lĩnh ngộ được).
Trong y học, võ thuật, trị quốc cũng đều đề cao “tĩnh khí”. Y học có câu: “Tinh thần nội thủ, bệnh tòng an lai.” (tạm dịch: Tinh thần mà giữ cho được nguyên vẹn, thì sẽ không có bệnh tật). Quyền gia cũng nói rằng: “Động tắc như long hổ, tĩnh do cổ phật tâm.” (tạm dịch: Động tác như rồng hổ, tâm tĩnh như tâm phật). Binh gia có câu: “Vi tương chi đạo, đương tiên trì tâm. Thái sơn băng vu tiền nhi diện bất cải sắc, mi lộc hưng vu tả nhi mục bất thuấn, nhiên hậu khả dĩ chế lợi hại, khả dĩ đãi địch.” (tạm dịch: Đạo làm tướng, trước hết phải giữ được tâm, núi Thái Sơn sụp đổ ngay trước mắt mà sắc mặt không thay đổi, con nai có nhảy múa bên cạnh thì mắt vẫn không liếc). Văn nhân cũng nói: “Tĩnh quan vạn vật” (tạm dịch: Tĩnh lặng mà quan sát vạn vật).
Như vậy có thể thấy rõ tầm quan trọng của “tĩnh khí” trong các trường phái và lĩnh vực khác nhau. “Tĩnh khí” có thể khiến người tu luyện Phật gia đạt tới cảnh giới “tứ thiền bát định”. “Tĩnh khí” khiến cho người tu đạo gia, khai huệ khai ngộ, nhập tĩnh mà thành “kim đan đại đạo”. “Tĩnh khí” khiến cho người của bên nho gia đạt được “nhìn xa trông rộng”, hoàn thành tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ. “Tĩnh khí” khiến cho người bệnh đạt được thân thể khỏe mạnh, sống lâu. “Tĩnh khí” khiến người học quyền gia dưỡng thành cảnh giới tinh thần “thanh dục đại dũng”. “Tĩnh khí” khiến cho người điều binh có thể thắng địch mà không cần phải đánh. “Tĩnh khí” giúp văn nhân có được linh cảm sáng tác.
“Tĩnh” không chỉ là một loại du dưỡng, là một loại trí tuệ mà cũng là một loại sách lược. Đứng trước một việc, người có “tĩnh khí” gặp nguy mà không loạn sẽ tự có thể sản sinh ra trí huệ mà hóa giải khó khăn. Người “loạn khí” đứng trước một việc sẽ chẳng những không giải quyết được vấn đề mà còn làm hỏng việc. Con người thường vì những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống mà làm vướng bận tâm, thậm chí còn suy nghĩ không ngừng, bị cái tình và dục vọng kìm hãm, không thể dùng lý trí mà nắm giữ chính mình, không thể thấy rõ chân lý của sự vật. Chỉ khi có “tĩnh khí”, con người mới có thể làm chủ được bản thân mình, mới có thể chuyên chú mà suy nghĩ vấn đề, tiếp theo mới có thể có được trí tuệ, thay đổi thế giới khách quan. Thấu hiểu tầm quan trọng của “tĩnh khí”, Tăng Quốc Phiên (tướng quân, nhà nho Lỗi lạc của triều Mãn Thanh, Trung Quốc) đã ra sức khởi xướng “ngồi thiền”.
Xã hội hiện đại ngày nay, hầu như người trẻ tuổi thường bị ảnh hưởng bởi bạo lực, áp lực… khiến trong lòng luôn bất an. Thậm chí có người còn cho rằng, nói mấy lời tranh cãi, dùng mấy đường võ thuật thì đã có thể tự xưng mình là nam tử hán dũng cảm. Nhưng mà, bậc trí huệ đều cho rằng, gặp chuyện mà rút gươm thì đây là cái dũng của kẻ thất phu, không phải đại dũng. Từ xưa đến nay, các bậc thánh hiền đều là những người đại khí, càng là gặp chuyện “kinh thiên động địa” thì càng có thể “tĩnh tâm như nước”, bình tĩnh mà ứng phó mới giải quyết được việc.
“Tĩnh khí” không phải tự nhiên sinh ra mà phải trải qua quá trình tu luyện mới có được. Trong cuộc đời, đứng trước mỗi việc phải: “ít đi một chút xao động, nhiều lên một chút tĩnh khí” thì mọi việc mới thành và cuộc đời mới tốt đẹp.
Theo Đại kỷ nguyên tiếng Trung
Mai Trà biên dịch
Xem thêm: