Trên hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng phải đương đầu với nhiều yêu ma quỷ quái, biểu hiện muôn hình vạn trạng: nào là sư tử chín đầu, nào là trâu xanh, cá chép, tê giác, mãng xà v.v. Tuy nhiên, hình tượng yêu tinh rết xuất hiện tới hai lần, và trùng hợp là chúng đều xảy ra ngay sau khi Đường Tăng “sa lưới tình”, vượt quan sắc dục. Đây có phải là một sự sắp xếp đầy ẩn ý của tác giả hay không?
Lần thứ nhất chạm trán yêu tinh rết là ở cuối hồi thứ 54, sau khi thầy trò Đường Tăng lập mẹo thoát khỏi nữ vương nước Tây Lương, bỗng một cơn gió nổi lên cuốn Đường Tăng đi mất. Sang hồi thứ 55, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới giao đấu với nữ quái đều thua, trước pháp lực của Mão Nhật Tinh Quân ả mới hiện nguyên hình là một con rết. Lần thứ hai yêu tinh rết xuất hiện là ở hồi thứ 73, sau khi mấy thầy trò vừa thoát khỏi ổ yêu tinh nhện động Bàn Ty, thì lại sa vào tay độc thủ của lão đạo sĩ đồng môn với bảy nữ quái. Lão vốn là “Bách Nhãn Ma Quân”, một con rết độc.
Tuy tình tiết cụ thể có khác nhau, nhưng hai ma nạn này đều liên quan tới khảo nghiệm về sắc – dục – tình. Như chúng ta đã biết, hình tượng năm thầy trò Đường Tăng thực chất là “ngũ vị nhất thể”, tuy năm mà một. Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Vậy nên, tuy nhân vật Đường Tăng cụ thể trong tiểu thuyết không mảy may rung động trước mỹ sắc, nhưng cuộc chiến khốc liệt giữa Ngộ Không và yêu quái là ẩn dụ cho quá trình tu tâm đoạn dục rất giằng co, thống khổ của con người.
Trong hai khảo nghiệm sắc tình này, cuộc giao đấu với rết tinh đều có một số đặc điểm giống nhau, khiến chúng ta không khỏi suy ngẫm: Một là, yêu tinh rết hạ thủ bất ngờ, khiến Đường Tăng bị bắt cóc hoặc trúng độc nguy hiểm tính mạng. Hai là, yêu tinh rết có chất kịch độc, khiến Ngộ Không phải đầu nhũn gân tê. Ba là, Ngộ Không không thể tự mình hàng phục yêu quái, phải nhờ Thần Phật cứu giúp.
Thủ đoạn bất ngờ của yêu tinh rết
Cuối hồi thứ 54: “Tam Tạng sang Tây qua nước gái; Ngộ Không lập mẹo thoát trăng hoa”, sau khi Đường Tăng được đồ đệ tháp tùng, thoát khỏi nữ vương, an toàn lên lưng ngựa, thì “Bỗng bên vệ đường một người con gái xộc tới quát to:
– Đường ngự đệ chạy đi đâu! Thiếp và chàng, ta cùng vui thú trăng hoa đi!
Sa Tăng quát mắng:
– Đồ giặc hỗn láo kia!
Đoạn rút bảo trượng nhằm đầu người con gái bổ xuống. Người con gái biến thành một trận gió lốc, thổi veo một tiếng, cuốn Đường Tăng đi mất tăm mất dạng, chẳng biết tha về phương nào. Than ôi, thật là:
Vừa thoát lưới mây mưa,
Lại gặp ma trăng gió.”
Nữ yêu thủ đoạn bất ngờ, khiến các vị đồ đệ không kịp trở tay. Sau này ở hồi thứ 73 – “Hận cũ bởi tình, gây nên đầu độc mới; Đường Tăng gặp nạn, Tỳ Lam phá hào quang”, đạo sĩ rết tinh cũng hạ độc thủ bất ngờ không kém. Bấy giờ mấy thầy trò mới vào đạo quán, hai bên vui vẻ làm quen, ai ngờ yêu tinh bỏ độc vào táo khiến “Bát Giới mặt tái nhợt, Sa Tăng nước mắt giàn giụa, Đường Tăng mặt đầy dớt dãi. Ba người ngồi không vững, chóng mặt ngã lăn xuống đất.”
Bản thân tiêu đề của hai hồi này đã nói lên bản chất của vấn đề: “trăng hoa”, “tình” và “hận” – cái quan sắc tình này thường ập đến không kịp trở tay như thế. Chẳng phải người ta hay nói: “Tiếng sét ái tình”, hay ví sắc đẹp của mỹ nhân là “hớp hồn người” đó sao? Một khi bị ái tình đánh trúng, thì đấng anh hùng cũng gục ngã, như kẻ mất hồn. Chính vì vậy, tình sắc dục chính là tử quan của người tu luyện. Không chân tu vững chắc, thì khó thoát khỏi mê hoặc, chấm dứt ở quan này.
Ở hồi 54 và 55, “Tây du ký” liên tục lặp lại những từ như: “thú trăng hoa”, “ma trăng gió”, “Thà rằng chết bên hoa, làm ma tinh phong tình vẫn giữ” (lời nữ quái); “Chân dương là quý nhất, đâu mê phường son phấn trăng hoa” (lời Đường Tăng). Vì sao cái bẫy sắc tình này thường liên quan tới trăng, hoa và gió như vậy? Thanh phong minh nguyệt, những cảnh tượng thanh tao u nhã này trong lịch sử từng chắp cánh cho biết bao vần thơ siêu phàm thoát tục, cũng là biểu tượng của đạo thanh tu. Nhưng yêu quái, đặc biệt là yêu quái sắc dục, cũng lợi dụng giả tướng tốt đẹp này để cám dỗ con người. Nếu không như thế, người tu luyện sẽ không bị dục vọng cám dỗ để rồi quay lại trêu ghẹo chúng. Như tác giả Thiên Đồng Nhân từng phân tích: Trong “Tây Du Ký”, đặc biệt là động phủ của các yêu nữ đều là những cảnh tượng “tùng trúc trải màu xanh, hạnh đào tranh sắc đỏ”, “u nhã lạc thú, nước suối róc rách”. Khi yêu tinh chuột trong động Không Đáy núi Hãm Không biến thành cô gái cầu cứu Đường Tăng giúp đỡ, dù Đường Tăng đã được Ngộ Không nói rõ cho rằng đó là yêu quái, nhưng vẫn mấy hồi quay lại để cứu nó để cùng đi đến một ngôi chùa.
Biểu hiện trong xã hội hiện đại ngày nay, sắc tình có thể mê hoặc con người nhờ khoác dưới lớp vỏ mỹ miều, đôi khi còn có vẻ cao thượng, của cái gọi là “tình yêu đích thực”, “đam mê”, “tri kỷ”, “bạn tâm giao”… Có thể bất chấp tất cả để theo đuổi tình yêu trở thành lý tưởng được tán dương; tình cảm nam-nữ được các tác phẩm nghệ thuật tô vẽ như điều mỹ hảo nhất mà kiếp nhân sinh truy cầu. Tôi từng biết một nam tài tử Đài Loan nổi tiếng một thời, những vai diễn của anh đều là người đàn ông si tình, thâm tình, trầm ổn, đáng tin cậy, hết lòng vì người mình yêu. Ấy vậy nhưng, thứ tình yêu không cần logic ấy đã thấm đẫm tâm hồn lãng mạn của anh, “phim vận vào đời”, khiến anh cả một đời chạy theo ái tình, kết hôn rồi ly hôn cũng vì tình, tình hết thì gia đình cũng mất. Trong phim anh là kẻ thâm tình, chung tình bao nhiêu; thì ngoài đời anh lại đa tình bấy nhiêu. Kết quả là, trải qua hai cuộc hôn nhân đổ vỡ với 3 người con, giờ đây tuổi đã xế chiều, “hoàng tử tình yêu” của vạn cô gái một thời nay chỉ còn là ông già sống một mình lẻ loi cô độc. Thế mới biết, cái tình si mà người ta sùng bái truy cầu đó, hạnh phúc thì ngắn mà nỗi đau lại quá dài. Người sống vì tình, sẽ vì tình mà tạo nghiệp, vì tình mà khổ đau.
Yêu tinh rết có chất kịch độc, khiến Tôn Ngộ Không cũng đầu nhũn gân tê
Có người phụ nữ từng chia sẻ rằng, sau khi đem lòng tơ tưởng một người đàn ông đã có gia đình, cô trở nên thờ ơ lãnh đạm với những chuyện khác, như thể điều gì cũng không quan trọng nữa. Cô nhớ có một lần nói chuyện với anh xong, nội dung câu chuyện không có gì đặc biệt, nhưng cô lại cảm thấy cả người nhẹ bẫng, suy nghĩ miên man vô định. Sau đó, cô đọc được một bài viết nói rằng loại cảm giác phiêu phiêu này tương tự như cảm giác nhẹ bẫng xuất hiện sau khi người ta dùng thuốc phiện. Giờ đây thanh tỉnh trở lại, cô mới nhận ra bản thân sa ngã vì truy cầu kích thích tinh thần, tình cảm nam nữ là thứ có kích thích mạnh nhất, giống như hút thuốc phiện rồi thì mọi thứ khác so ra đều nhạt nhẽo vô vị.
Trong “Tây du ký”, Tôn Ngộ Không hai lần chạm trán yêu tinh rết đều bị đòn độc của yêu quái khiến đầu nhũn cả ra, đau đớn không thể nào chịu được. Lần thứ nhất ở hồi 55, Hành Giả nói: “Đầu tôi từ ngày tu luyện đắc đạo, ăn vụng được rượu tiên ở Hội bàn đào, kim đơn của Lão Tử, khi đại náo thiên cung, bị Thượng Đế sai Đại Lực quỷ vương, Nhị thập bát tú giải ra ngoài cung Ngưu Đàn xử trảm, các vị thần dùng đao, búa, kiếm, chùy, sét đánh lửa thiêu, sau lại bị Lão Tử bỏ vào lò bát quái đốt cháy bốn mươi chín ngày mà không hề bị thương tổn gì. Nay không biết con mụ ấy dùng loại binh khí gì đánh lão Tôn bị thương ở đầu.” Vậy đủ thấy cây “độc đảo mã” của nữ quái lợi hại thế nào. Người tu luyện dù công phu cao tới đâu, đạt đến cảnh giới cao thế nào, cũng không thể lơ là cảnh giác ma sắc dục.
Lần thứ hai ở hồi 73, đạo sĩ rết tinh trổ pháp lực, hai nách có đến một ngàn con mắt, mỗi mắt phóng ra hào quang chói lọi, cuồn cuộn mù vàng, “Lóe mắt sầm trời che nhật nguyệt; Trùm người khí nóng đốt mông lung; Vây hãm trọn Tề Thiên Đại Thánh vào trong”. Tôn Ngộ Không bị giam hãm trong đám hào quang ấy, luống cuống luẩn quẩn, tiến không được, lùi không xong, tức giận nhảy lên thì bị va đầu vào đến chát một tiếng thì thấy da ở đỉnh đầu đã mềm nhũn cả ra.
Chúng ta đều biết Tôn Ngộ Không trong hình tượng con khỉ – “tâm viên” là đại diện cho cái tâm của người tu hành. Con rết tinh là ẩn dụ cho sắc dục, sự hung ác của nó nằm ở chất độc của nó. Khi bị giam hãm trong tình sắc dục, cái tâm tu luyện kiên cố hơn kim cương sắt thép ấy cũng có thể bị mềm nhũn cả ra, ý chí suy mòn, tâm thần vô định, đủ thấy sức dụ hoặc, tàn phá của ma tình là rất lớn. Giới tu luyện coi sắc dục tình như thuốc độc, là “tử quan”, con người vì nó mà vĩnh viễn chìm đắm trong luân hồi, không thể nào siêu thoát.
Có người tu luyện không sợ uy hiếp của đao kiếm, coi nhẹ hết thảy danh lợi thế gian, đã vượt qua biết bao quan ải kinh tâm động phách. Nhưng cuối cùng, chỉ vì một ánh mắt của nữ nhi mà uổng phí cả đời tu hành. Như lời than khóc của Ngộ Không:
“Nhớ xưa theo đạo rời non
Sang Tây cất bước lên đường gian truân
Sóng to biển cả không sờn
Ai ngờ ngòi hẹp nên cơn cớ này!”
Chỉ có Thần Phật mới hàng phục được yêu tinh rết
Yêu tinh rết lợi hại như vậy, Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại cũng phải bó tay. Cả hai lần, Ngộ Không đều may nhờ có Quán Âm Bồ Tát và Lê Sơn Lão Mẫu chỉ điểm, tìm Thần Tiên tới hàng phục yêu quái.
Thế mới biết, trên hành trình tu luyện có những đại nạn quá lớn, dù người tu luyện có vận dụng hết thảy thần thông và pháp lực cũng khó lòng vượt qua. Người xưa có câu: “Ma cao một thước, Đạo cao một trượng”. Trong hoạn nạn không nhìn ra lối thoát, chỉ có tín tâm vào Phật Pháp, sự gia trì của Thần Phật mới có thể giúp người tu luyện “mở tung lưới dục, ra khỏi lồng tình”. Khi ấy mới là:
“Mọi trần duyên rũ hết
Thảy vật sắc là không
Mộc mạc phác thuần tình dục ít
Tự nhiên hưởng thọ mãi vô cùng.”
Nhìn thấu bản chất ích kỷ của ái tình
Con người có thất tình lục dục, nảy sinh tình cảm nam-nữ là điều bình thường, nhưng thứ ái tình này một khi đi quá giới hạn, vượt qua ước thúc về đạo đức gia đình, lễ tiết, thì lại trở thành một thứ thuốc độc. Truy cầu tình yêu, tự do luyến ái, trên bề mặt là đang vì đối phương, mà thực ra là đang ích kỷ, vì mình. Tại sao nói như vậy?
Bởi vì thứ tình yêu này nảy sinh khi đối phương phù hợp với quan niệm của bản thân mình, khi đối phương mang lại cho mình những gì mình khao khát. Phụ nữ thường dễ xiêu lòng trước người đàn ông cho mình cảm giác được trân quý, che chở, yêu thương, mang lại vinh dự cho cô ấy. Đàn ông thì dễ gục ngã trước người con gái xinh đẹp, dịu dàng, nhận ra giá trị và tán thưởng anh ta. Một khi những điều này không được thoả mãn, thì ái tình cũng mất. Trong “Tây du ký”, hồi thứ 55, sau khi nói qua nói lại lằng nhằng đến canh khuya, quyến rũ Đường Tăng mãi không được, nữ yêu bèn phát cáu, nói:
“– Bọn nhỏ, mang thừng lại đây!
Thật đáng thương, đem trói một người mà mình hằng yêu dấu như một con vượn vậy. Đoạn nữ quái lại sai vứt Đường Tăng vào một góc hành lang.”
Mới trước đó còn chàng chàng thiếp thiếp, ngọt nhạt yêu đương, phắt cái đã đày đoạ không ra gì rồi. Vì tình mà sinh hận, cái tình này sao có thể nói là “vị tha” được đây? Đó là lý do tại sao trong xã hội ngày nay, rất nhiều cặp tình nhân cãi vã, trở mặt, một khi đối diện với hiện thực vất vả của hôn nhân thì mau chóng chia tay. Là bởi người họ thực sự yêu không phải người kia, mà là chính bản thân mình.
Vì sao xã hội truyền thống nhấn mạnh “đạo nghĩa vợ chồng” chứ không nhấn mạnh tình yêu? Bởi vì “tình” là thứ không ổn định, nay thế này mai thế khác, con người chỉ có dựa trên đạo nghĩa mới duy trì được hôn nhân, xả bỏ những cảm giác ích kỷ vị tư thì mới làm tròn bổn phận, gia đình hạnh phúc.
Còn người tu luyện Phật Pháp xả tận thế gian, lại càng cần tu bỏ thứ ái tình ích kỷ, vị tư này. Vậy mới có thể tu thành Đại Giác Giả từ bi vô lượng, đối với hết thảy chúng sinh đều ôm giữ một trái tim từ bi, không cầu hồi đáp. Đây mới là cái “Thiện” chân thật, là cảnh giới mỹ hảo hơn mà sinh mệnh cần hướng đến.
“Tây du ký” có thơ rằng:
Lục căn buông sổng nhiều tham dục,
Nhất tịnh khai thông thấy bản nguyên.
Vô ái vô tư thanh tịnh đến,
Ấy là giải thoát được siêu nhiên.
Thanh Ngọc
Ảnh: Phim Tây Du Ký 1986
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.
>> Xem trọn bộ Giải mã Tây Du Ký