Đã bao giờ bạn tự hỏi mình rằng: “Cuộc sống của ta có gì vui?“. Có vẻ như những lời dạy của Khổng Tử từ hơn 2000 năm trước lại giúp bạn giải đáp khá trọn vẹn điều đó.
Khổng Tử quả thực là một tấm gương sáng, cho dù là trong học tập, kinh điển hay đạo đối nhân xử thế ở đời. Đối với ông, cuộc sống quả thực có rất nhiều niềm vui, nhưng lớn nhất chính là những điều này.
1. Niềm vui học tập
Trong “Luận ngữ – Học nhi” thuyết rằng: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?“. Nghĩa là: Học mà được ôn luyện thường xuyên, há chẳng vui sao?
Đối với chúng ta, học tập luôn là việc phải liên tục nâng cao, bồi bổ, là một quá trình không ngừng hoàn thiện. Mà quá trình này tự nó cũng hàm chứa nhiều niềm vui. Niềm vui của “học” là quá trình không ngừng truy cầu chân lý, thông qua sự nỗ lực của bản thân mà hiểu rõ được nhiều kiến thức xưa nay vốn chưa biết.
Điều đó đem lại cho người ta vô số cảm giác hài lòng, vui vẻ. Niềm vui của “tập” là quá trình thực hành những kiến thức đã học, biến chúng trở thành năng lực của bản thân. Điều đó khiến những điều bạn đã học được tiêu hóa, hấp thụ, từ kiến thức trở thành trí tuệ.
2. Niềm vui khi giao lưu bạn bè
Cũng trong “Luận ngữ – Học nhi” lại giảng rằng: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ“. Nghĩa là: Có bạn từ phương xa đến thăm, chẳng mừng lắm sao?
Vương Bột trong lần tiễn đưa bạn vào đất Thục làm quan viết:
“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược bỉ lân“
Trong trời biển này ta vẫn còn người tri kỷ. Nên dẫu ở góc biển chân trời thì vẫn cứ như đang sát cạnh vậy. Quen biết bạn bè là một chuyện vui, vì vậy Khổng Tử không ngừng quen biết với những người bạn tốt, mà việc quen biết rộng rãi đã đem lại cho ông vô số niềm vui.
Một trong những người bạn lớn nhất của Khổng Tử chính là Lão Tử. Chuyện kể rằng Khổng Tử tấu xin vua Lỗ lên đường đến thỉnh Đạo của Lão Tử. Vua Lỗ cấp cho ông một chiếc xe song mã, một đứa hầu nhỏ, lập tức lên đường, nghìn dặm xa xôi đến gặp Lão Tử. Đến nơi Khổng Tử thăm Đạo, hỏi lễ, thỉnh nhạc. Lão Tử chỉ nói vài lời đã khiến ông đại ngộ, nhận ra Đại Đạo.
Trở về, Khổng Tử trầm ngâm 3 ngày, cuối cùng ngửa mặt lên trời nói: “Ta gặp Lão Tử, thấy cảnh giới tư tưởng ông ấy như rồng ngao du trong thái hư huyền ảo, khiến ta cứ há miệng mãi mà không nói ra lời, lưỡi thè ra cũng không thu lại được, khiến cho ta tâm thần bất định, chẳng biết ông rốt cuộc là người hay là Thần nữa. Lão Đam, thực sự là Thầy của ta!”.
3. Niềm vui trong âm nhạc
Trong “Luận ngữ – Thái bá” thuyết rằng: “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc“. Nghĩa là: Hưng khởi tâm hồn nhờ Kinh Thi, vững vàng khuôn phép nhờ Kinh Lễ, thành tựu nhờ Kinh Nhạc. Yêu thích âm nhạc sẽ giúp tâm hồn ta bình thản, dưỡng thành nhân cách hoàn mỹ.
Truyền thuyết kể rằng, khi Khổng Tử biên soạn, lựa chọn và chỉnh lý “Kinh Thi”, ông chỉ lấy 305 thiên có thể có ích cho lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng. Trong thời đại mà các quy tắc, chế độ lễ giáo truyền thống bị phá huỷ nghiêm trọng, Khổng Tử muốn khôi phục sự hưng thịnh của lễ giáo âm nhạc, truyền bá và phát dương đạo nghĩa. Đương nhiên, đó là một chuyện vô cùng khó khăn. Thế nhưng ông lại tìm thấy niềm vui bất tuyệt trong hành trình gian khó đó. Khổng Tử cho rằng, âm nhạc là sự kết hợp hoàn hảo của “mỹ” và “thiện”.
4. Niềm vui khi được dạy người khác
“Luận ngữ – Thuật nhi” giảng: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện“. Nghĩa là: Học không biết chán, dạy người không biết mệt.
Hơn 70 môn đồ thân cận nhất được Khổng Tử truyền thụ đạo học đều trở thành những học giả xuất sắc và nổi bật của thời đại. Những bài giảng dạy của ông đến nay còn truyền lại cho hậu thế. Chính Khổng Tử cũng trở thành bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa, một tấm gương về nỗ lực tự học và gieo mầm học vấn cho thế nhân.
5. Niềm vui sơn thủy
“Luận ngữ – Ung dã” viết: “Trí giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn“. Nghĩa là: Người trí thì vui với sông nước, người nhân lại vui với núi non. Ý tứ chính là người trí tuệ và bậc nhân nghĩa đều là vui thú với cảnh thiên nhiên, non nước hữu tình và ở ngoài vòng danh lợi cả.
Nhưng cũng còn một cách giải thích khác là, người trí tuệ giống như dòng nước cuộn chảy qua vạn vật, thấu hiểu vạn vật. Người nhân nghĩa lại giống như ngọn núi cao sừng sững, trầm ổn, yên tĩnh, khiến cho vạn vật tin cậy, nương tựa.
Người xưa quả là rất yêu non nước. Cảnh sắc giang sơn gấm vóc, hữu tình thực đã làm say lòng biết bao nhà thơ, nhà văn. Ví như Lý Bạch trong một lần ngắm dòng thác ở núi Lư Sơn đã hạ bút làm thành một tuyệt tác:
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
Dịch thơ:
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”
Người trí yêu sông nước, người nhân yêu núi cao, đó cũng giống như sự bù đắp cho nhau của núi cao hùng vĩ và dòng nước dịu dàng, giống như hòa hợp âm dương. Đây chắc không phải là niềm vui cảm tính đơn thuần đối với thiên nhiên.
6. Niềm vui ẩm thực
“Luận ngữ – Hương đảng” giảng rằng: “Thực bất yếm tinh, khoái bất yếm tế“. Nghĩa là: Cơm càng trắng tinh càng thích, thịt thái càng nhỏ càng tốt.
Vào thời đại của Khổng Tử chỉ sử dụng dao đồng thô sơ, mà loại dao này không có cách nào thái thịt mỏng như giấy được. Vậy nên, xem ra niềm vui ẩm thực của ông cũng vô cùng giản dị. Không phải là được ăn cao lương mỹ vị, tủy phượng gan rồng, chỉ đơn giản là hưởng niềm khoái lạc trong những điều tưởng như nhỏ nhặt nhất mà thôi.
Khổng Tử còn nhấn mạnh rằng: “Thực bất ngữ, tẩm bất ngôn“. Có nghĩa là khi ăn uống không bàn luận, khi đi ngủ cũng không nói chuyện. Những năm cuối đời mình, Khổng Tử rất khắt khe đối với nết ăn, nết mặc. Nếu dùng quan điểm hiện đại về vệ sinh mà xem xét, thói quen của Khổng Tử lúc đó đều rất đúng đắn, và yêu cầu của ông đều rất cao.
Theo NTDTV
Khải Phong biên dịch