Theo hồi ký của Triệu Tử Dương, vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989 là do Đặng Tiểu Bình quyết định, động dụng quân đội, súng máy và xe tăng để tàn sát những sinh viên và người dân kháng nghị ôn hòa. Vì sao Đặng huy động quân đội trấn áp?
Chào mừng các bạn đến với Trăm năm chân tướng!
Ngày 4/6/1989, vụ thảm sát Thiên An Môn xảy ra ở Bắc Kinh khiến cả thế giới chấn động.
Theo hồi ký “Lịch trình cải cách” của Triệu Tử Dương, nguyên tổng bí thư ĐCSTQ bị đả đảo sau vụ thảm sát Thiên An Môn: Từ tối 3/6 đến 4/6/1989, Bắc Kinh không phát sinh bạo loạn phản cách mạng. Chuyện xảy ra là do Đặng Tiểu Bình đã quyết định dùng quân đội, súng máy, xe tăng để tàn sát những sinh viên và người dân kháng nghị ôn hòa.
Đương thời ở Bắc Kinh không phát sinh bạo loạn phản cách mạng, tại sao Đặng Tiểu Bình lại huy động quân đội để trấn áp?
Nguyên nhân vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 là gì?
Hôm nay, dựa trên cuốn hồi ký “Lịch trình cải cách” của Triệu Tử Dương và các tài liệu khác, chúng tôi sẽ thảo luận về lý do dẫn đến vụ thảm sát Thiên An Môn, còn gọi là sự kiện Lục Tứ.
Tổng hợp lại có 3 nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, giết người là thủ đoạn quan trọng nhất để ĐCSTQ đoạt chính quyền, củng cố quyền lực và duy trì quyền lực.
Sùng thượng bạo lực là một trong những gen quan trọng nhất được Marx, lão tổ tiên của ĐCSTQ để lại cho hậu đại.
Năm 1848, Marx đã phát biểu trong “Tuyên ngôn Cộng sản”: “Người Cộng sản khinh thường việc che giấu quan điểm và ý đồ của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục tiêu của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chế độ xã hội hiện tồn.”
Lênin, đồ đệ lớn của Mác, không chỉ sùng thượng bạo lực, mà còn trực tiếp lấy giết người để lập uy, lấy giết người để trị quốc. Sau khi Lênin nắm quyền thông qua cuộc đảo chính tháng 10 năm 1917, đã tiến hành một loạt vụ các vụ giết người. Theo cuốn “Lịch sử nước Nga thế kỷ XX” do nhà sử học Nga Zubov biên tập, chỉ riêng từ năm 1918 đến tháng 2 năm 1922, Lênin đã giết hại không dưới 2 triệu người.
Một đồ đệ khác của Marx là Mao Trạch Đông, nắm quyền trong 27 năm, phát động hàng chục vận động chính trị đẫm máu và tàn bạo, giết chết 80 triệu người Trung Quốc. Lợi dụng “nòng súng” (tức quân đội), “lưỡi đao” (tức cỗ máy độc tài) để hù dọa hàng trăm triệu người dân Trung Quốc là vũ khí lợi hại của Mao để duy trì sự thống trị cực quyền.
Sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, ông ta không giữ chức vụ tổng bí thư, chủ tịch nước hay thủ tướng Quốc vụ viện, mà trường kỳ giữ chức chủ tịch Quân ủy Trung ương. Tại sao? Đặng cũng như Mao, sùng thượng “trị quốc bằng nòng súng”. Bất cứ khi nào Đặng cảm thấy quyền lực tuyệt đối của mình bị uy hiếp, ông ta sẽ giết người.
Thứ hai, Đặng có bê bối, muốn triệt tiêu chức tổng bí thư của Triệu Tử Dương
Sau khi Đặng Tiểu Bình phát động cải cách mở cửa năm 1978, ông đã đưa ra một quan điểm quan trọng: “Để một bộ phận người làm giàu trước”. Những người này là ai? Họ là con của các nguyên lão ĐCSTQ do Đặng Tiểu Bình đứng đầu, trong đó có con trai cả của Đặng Tiểu Bình là Đặng Phác Phương. Tuy nhiên, trước sự kiện Lục Tứ, Triệu Tử Dương thực sự đã ra lệnh điều tra Công ty Khang Hoa của Đặng Phác Phương.
Theo Bảo Đồng, thư ký chính trị của Triệu Tử Dương hồi ức: “Tôi nghĩ nhà Đặng, gia đình Đặng Tiểu Bình đương thời bất mãn với cuộc điều tra vụ Khang Hoa. Căn cứ là gì? Tôi có căn cứ. Tôi lúc đó là chủ nhiệm Văn phòng Nghiên cứu Cải cách Thể chế Chính trị, nghị đề chính được đưa ra cho tôi lúc đó là vấn đề liêm chính của Trung Quốc. Một ngày nọ, Đặng Nam, con gái của Đặng Tiểu Bình, đến văn phòng của tôi và nói: ‘Lão Bảo, tại sao ông lại điều tra Khang Hoa?’ Tôi nói với cô ấy: Việc điều tra Khang Hoa là quyết định của Quốc vụ viện.”
“Cô ấy hỏi tại sao lại điều tra? Tôi nói hiện tại có rất nhiều ý kiến về Khang Hoa. Có ý kiến trong dân, trong cán bộ, có ý kiến ở các bộ trung ương, có ý kiến ở các cấp địa phương. Nếu điều tra phát hiện Phác Phương là người tốt, vậy thì chẳng phải là Phác Phương thanh bạch sao? Nếu chúng ta tìm ra những sơ hở tài vụ của Phác Phương thì hãy sửa chữa sai lầm. Điều đó chẳng phải rất tốt sao? Đối với công tác tương lai chẳng phải càng tốt hơn sao?”
Nghe Bảo Đồng nói xong, Đặng Nam nói: “Lão thật lắm ý kiến!” rồi bỏ đi.
Triệu Tử Dương hạ lệnh điều tra Đặng Phác Phương, động vào con trai của Đặng Tiểu Bình chẳng khác nào động vào “miếng pho mát” của các nguyên lão ĐCSTQ do Đặng Tiểu Bình đứng đầu, đây có thể là một trong những lý do quan trọng khiến Đặng Tiểu Bình hợp tác với các nguyên lão khác của ĐCSTQ để loại bỏ Triệu Tử Dương.
Triệu Tử Dương phản đối việc Đặng Tiểu Bình triển khai quân đội để trấn áp sinh viên, đây có thể là một lý do quan trọng khác khiến Đặng loại bỏ Triệu.
Nguyên nhân bùng nổ cuộc vận động dân chủ sinh viên Lục Tứ là cái chết bất ngờ của cựu tổng bí thư ĐCSTQ Hồ Diệu Bang vào ngày 15 tháng 4 năm 1989. Khi đó, sinh viên Đại học Bắc Kinh và nhiều trường đại học khác đã tự phát đến Quảng trường Thiên An Môn để tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Sau đó, các hoạt động tưởng niệm phát triển thành vận động chống tham nhũng hủ bại, đòi dân chủ và tự do.
Làm thế nào để xử lý phong trào sinh viên này?
Đặng Tiểu Bình chủ trương đưa quân đội vào Bắc Kinh, thực thi giới nghiêm, tức là trấn áp bằng vũ lực; Triệu Tử Dương không đồng ý, chủ trương giải quyết vấn đề tranh chấp theo con đường dân chủ và pháp quyền.
Đương thời, không ít người trong giới cao tầng đảng chính quân của ĐCSTQ cũng đồng tình với thái độ của Triệu.
Theo hồi ức của Triệu Tử Dương: “Ngày 21/5, (Thường ủy Bộ Chính trị) Kiều Thạch nói rằng, nếu Đặng Tiểu Bình không điều động quân đội tới Bắc Kinh, thì thảm kịch có thể đã tránh được. Hiện tại quân đội tiến vào không được, lệnh giới nghiêm không khởi tác dụng, hàng trăm vạn sinh viên và thị dân đổ ra đường tràn vào quảng trường Thiên An Môn, thủ đô sẽ bị tê liệt. Tôi đương thời cho rằng chỉ có triệu tập cuộc họp của Thường ủy Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao dùng hình thức dân chủ và pháp trị mới xoay chuyển cục diện. Trước đó (phó ủy viên Thường vụ Quốc hội) Bành Xung đã đến tìm tôi nói rằng, hội nghị của các phó ủy viên trưởng nhất trí chủ trương triệu tập hội nghị Thường ủy trước, và (cựu ủy viên trưởng Thường vụ Quốc hội) Bành Chân cũng tán thành.”
Hồ Khải Lập, thường ủy Bộ Chính trị ĐCSTQ, các ủy viên Ủy ban Cố vấn Trung ương, bao gồm Lý Xương, Lý Duệ, Đỗ Nhuận Sinh, Vu Quang Viễn, Hồ Tích Vĩ, hơn 50 vị thường ủy Quốc hội và bảy thượng tướng Trương Ái Bình, Tiêu Khắc, Diệp Phi, Lý Tụ Khuê, Dương Đắc Chí, Trần Tái Đạo, Tống Thời Luân đều phản đối quân đội trấn áp sinh viên.
Thiếu tướng Từ Cần Tiên, tư lệnh Quân đoàn 38, từ chối dẫn quân vào Bắc Kinh. Mặc dù Trương Minh Xuân, chính ủy của Quân đoàn 28 Lục quân, và quân trưởng Hà Yến Nhiên được lệnh đưa bộ đội tiến vào Bắc Kinh, nhưng họ đã kháng mệnh, bộ đội do họ chỉ huy trở thành đơn vị duy nhất không đến vị trí đã được chỉ định đúng giờ. Điều này cho thấy, họ không muốn tham gia vào vụ thảm sát sinh viên.
Sau vụ thảm sát ngày 4 tháng 6, Triệu Tử Dương bị cáo buộc “chia rẽ đảng” và “ủng hộ động loạn”, bị triệt tiêu tất cả các chức vụ, kể cả chức tổng bí thư ĐCSTQ, chỉ bảo lưu đảng tịch.
Thứ ba, kiên trì cái gọi là “bốn nguyên tắc cơ bản”
Khi Đặng Tiểu Bình phát khởi cải cách khai phóng năm 1978, một trong những điều kiện tiền đề là phải kiên trì “Bốn nguyên tắc cơ bản” là: kiên trì chủ nghĩa Mác – Lê, kiên trì chủ nghĩa xã hội, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì đảng lãnh đạo.
Then chốt của bốn kiên trì là ‘kiên trì sự lãnh đạo của đảng’. Then chốt của ‘kiên trì sự lãnh đạo của đảng’ là kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của chủ tịch Quân ủy Trung ương Đặng Tiểu Bình đối với đảng.
Tại sao Đặng Tiểu Bình buộc Hồ Diệu Bang từ chức?
Năm 1987, Đặng Tiểu Bình mượn lý do “phản đối bất lực tự do hóa giai cấp tư sản” để buộc Hồ Diệu Bang, lúc đó là tổng bí thư ĐCSTQ phải từ chức. Nguyên nhân thực sự là Hồ Diệu Bang bị cáo buộc mưu đồ buộc Đặng Tiểu Bình bàn giao quyền lực quân sự. Mặc dù Đặng đã nhiều lần nói đến việc nghỉ hưu và cần trẻ hóa cán bộ, nhưng ông ta không muốn từ bỏ quyền lãnh đạo tuyệt đối của chủ tịch Quân ủy Trung ương đối với đảng.
Mùa hè năm 1986, Đặng Tiểu Bình gặp Hồ Diệu Bang để bày tỏ quan điểm của mình về các ứng cử viên cho Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của ĐCSTQ. Đặng nói: “Tôi sẽ từ bỏ toàn bộ, từ chức chủ tịch Quân ủy Trung ương, ông từ chức và đảm nhận chức vụ Quân ủy của tôi, Tử Dương cũng sẽ từ chức, đi làm Chủ tịch nước. Cả Tổng Bí thư và Thủ tướng đều sẽ để người trẻ tuổi làm.”
Đặng thực ra chỉ đang thử xem Hồ sẽ phản ứng thế nào. Tuy nhiên, Hồ đã tin đó là thật, trong tâm rất cao hứng, vui mừng đến mức không thể kiềm chế được cái miệng, nhanh chóng tiết lộ cuộc trò chuyện chỉ giới hạn giữa Đặng và Hồ.
Cách làm của Hồ vi phạm điều cấm kỵ lớn nhất của Đặng.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XIII năm 1987, Triệu Tử Dương được bầu làm tổng bí thư ĐCSTQ, còn Đặng, chỉ với thân phận là đảng viên, tiếp tục giữ chức chủ tịch Quân ủy Trung ương. Bề ngoài, Triệu Tử Dương là lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ. Nhưng về thực chất, Đặng mới là nhà lãnh đạo tối cao của đảng.
Triệu Tử Dương không thuận tòng Đặng ít nhất bốn lần và bị buộc từ chức
Vào ngày 25 tháng 4 năm 1989, sau khi nghe báo cáo của thủ tướng Quốc vụ viện Lý Bằng, Đặng Tiểu Bình đã định tính tình trạng động loạn của sinh viên là động loạn phản đảng phản chủ nghĩa xã hội. Vào ngày 26 tháng 4, theo chỉ đạo của Đặng, tờ Nhân dân Nhật báo đã đăng bài xã luận “Hãy có lập trường rõ ràng phản đối động loạn”.
Đối với quyết sách của Đặng, Triệu Tử Dương đã ít nhất bốn lần không tuân tòng.
Lần đầu tiên là trong bài phát biểu kỷ niệm “Vận động Tứ Ngũ” ngày 3 tháng 5, Triệu khẳng định nhiệt tình yêu nước của sinh viên và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sự ổn định, nhưng hoàn toàn không đề cập đến hai chữ “động loạn”.
Lần thứ hai là trong bài phát biểu ngày 4 tháng 5 khi gặp đại biểu Hội nghị Thống đốc thường niên của Ngân hàng Châu Á, Triệu đề xuất phương thức giải quyết vấn đề thông qua hiệp thương, đối thoại trên con đường dân chủ và pháp chế, mà không đề cập đến hai chữ “động loạn”.
Lần thứ ba là tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị ĐCSTQ ngày 16/5, Triệu đề xuất rằng phản ứng đối với bài xã luận ngày 26 tháng 4 là quá mạnh mẽ từ mọi phương diện, đã trở thành nút thắt ảnh hưởng đến tình cảm của học sinh sinh viên. Liệu nút thắt này có thể được tháo gỡ một cách thích đáng để xoa dịu cảm xúc của học sinh? Lý Bằng nói rằng những gì được nói trong bài xã luận là “một âm mưu có kế hoạch”, “một sự động loạn”, “bản chất của nó là phủ định về cơ bản sự lãnh đạo của ĐCSTQ, phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa”, “đây là cuộc đấu tranh chính trị nghiêm trọng trước toàn đảng toàn nhân dân các dân tộc” là lời nói nguyên gốc của Đặng Tiểu Bình, không thể thay đổi. Triệu biểu thị không đồng ý.
Lần thứ tư là sau khi Đặng đề xuất điều quân đội tiến vào Bắc Kinh vào ngày 17/5, Triệu không đồng ý và đề nghị từ chức.
Theo quan điểm của Đặng Tiểu Bình, hành động của Triệu đã xâm phạm quyền lãnh đạo tuyệt đối của chủ tịch Quân ủy Trung ương đối với đảng, cũng chính là vi phạm “Bốn nguyên tắc cơ bản”.
“Bốn nguyên tắc cơ bản” là gì? Trên thực tế, nó là bốn cây gậy đánh người. Từ Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình, mỗi khi họ muốn chỉnh ai đó, họ sẽ dùng bốn cây gậy này để gán cho bạn là phản đảng, phản xã hội chủ nghĩa, phản chuyên chính dân chủ nhân dân, phản chủ nghĩa Mác-Lê, và đánh bạn đến chết.
Ngày 9 tháng 6 năm 1989, trong bài phát biểu khi tiếp kiến các cán bộ cấp trên của bộ đội giới nghiêm, Đặng Tiểu Bình đầu tiên nói đã xảy ra “động loạn”, sau đó lại nói xảy ra “bạo loạn phản cách mạng”. Sau đó ông ta nói: “Họ muốn lật đổ quốc gia của chúng ta, lật đổ đảng của chúng ta… Mục đích là thành lập một nước cộng hòa giai cấp tư sản hoàn toàn hòa nhập vào phương Tây… Cốt lõi là lật đổ đảng Cộng sản, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.”
Sau đó, tại Phiên họp toàn thể lần thứ tư BCH Trung ương ĐCSTQ khóa 13, Đặng buộc tội Triệu Tử Dương “chia rẽ đảng”, “ủng hộ động loạn”, và cả “bốn cây gậy” chống lại bốn nguyên tắc cơ bản toàn bộ đều đánh vào Triệu. Nhưng Triệu Tử Dương đến chết vẫn không chịu thừa nhận rằng ông đã “chia rẽ đảng” và “ủng hộ động loạn”.
Sau khi vụ thảm sát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn phát sinh, Đặng Tiểu Bình đã tự tay chấm dứt cải cách thể chế chính trị của ĐCSTQ.
Từ ngày 4 tháng 6 năm 1989 cho đến hôm nay năm 2024, công cuộc cải cách thể chế chính trị của ĐCSTQ không những không đạt được bất cứ tiến triển có tính thực chất nào. Ngược lại, sau khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, ông ta từng bước quay ngược trở lại với Cách mạng Văn hóa, quay ngược trở lại thời đại cực quyền “đảng lãnh đạo hết thảy”.
Đặng Tiểu Bình từng nói: “Nếu chỉ tiến hành cải cách thể chế kinh tế mà không cải cách thể chế chính trị, thì không thể làm được cải cách thể chế kinh tế.”
Cũng đích thân Đặng đã chấm dứt cải cách thể chế chính trị của ĐCSTQ, tương đương với việc kết thúc cải cách thể chế kinh tế của ĐCSTQ.
Thời gian cho đến hôm nay, công cuộc cải cách khai phóng của ĐCSTQ đã chết. Tất cả những tuyên bố của ĐCSTQ về việc “kiên trì cải cách khai phóng” bất quá chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng.
- Trọn bộ Trăm năm chân tướng
Theo Epoch Times,
Hương Thảo biên dịch