Cách đây hàng nghìn năm, cổ nhân đã biết chống chọi lại cái nắng nóng của mùa hè bằng nhiều phương pháp độc đáo. Ngày nay, khi nghiên cứu lại tài liệu cũ, người ta vẫn không khỏi thán phục trí tuệ của người xưa.
Mùa hè oi bức, ngồi phòng điều hoà, ăn đồ mát, kem tươi quả là lựa chọn tuyệt vời. Thế nhưng cách đây hàng nghìn năm, vào thời còn chưa có đồ điện, con người làm thế nào để giải nhiệt? Người xưa dù không có đồ điện nhưng lại có trí tuệ và sự sáng tạo khiến hậu thế phải kinh ngạc.
Vật dụng chống nóng quen thuộc nhất với chúng ta là chiếc quạt, với đầy đủ kiểu dáng chủng loại khác nhau. Những văn nhân nho nhã thời xưa cũng dùng quạt, nhưng là quạt giấy. Nữ giới thì dùng quạt lụa, còn thường dân thì có thể tiện tay lấy nón, mũ hoặc khăn tay mà quạt mát.
Những gia đình giàu sang, có điều kiện sẽ xây hầm chứa đá. Mùa đông người ta đi lấy đá trong núi sâu về tích trữ trong hầm, tới mùa hè mang ra cho vào chậu. Người hầu sẽ đứng bên cạnh quạt để hơi mát từ đá tỏa ra.
Có một số đại gia tộc giàu có hơn sẽ cho xây dựng những khuôn viên, vườn hoa ngay bên bờ hồ nước. Người ta cho trồng cây cối mát mẻ lại có lầu gác để nghỉ ngơi vào mùa hè, tận dụng hơi nước để giảm nhiệt nóng.
Vào thời nhà Đường người ta đã thiết kế ra những phòng lạnh để hạ nhiệt vào mùa hè. Thông thường phòng được xây ngay bên cạnh hồ nước, tận dụng phương thức tuần hoàn của nước để làm bánh xe có cánh quạt chuyển động. Nhờ đó khí mát của nước sẽ được đưa vào phòng.
Hoặc người ta có thể sử dụng một loại thiết bị để đưa nước lên mái nhà. Nước sẽ men theo mái hiên nhà mà chảy xuống dưới tạo thành rèm nước nhân tạo, làm cho phòng trở nên mát mẻ hơn. Kiểu phòng này vừa mát mẻ lại vừa sạch sẽ, chỉ có điều dân thường khó có điều kiện làm được.
Nhưng người dân thường cũng có vô vàn cách tạo ra bóng râm che mát, ví dụ lắp rèm, lắp mành trong sân, làm giường trúc, ghế trúc, đầu giường dùng đá, dùng ngọc để làm gối.
Từ rất sớm, vào thời nhà Chu (năm 256 TCN), người ta đã lập ra một bộ phận chuyên môn làm dịch vụ cung cấp “băng, đá”. Họ dùng một loại công cụ gọi là Giám Phẫu, lấy đá băng bỏ vào trong, sau đó đặt đồ ăn, hoa quả hoặc rượu vào để ướp lạnh.
Thông thường kích cỡ của những chiếc Giám Phẫu này rất lớn, ví dụ như chiếc Giám Phẫu Tăng Hầu Ất thời Chiến Quốc có chiều cao 63,2cm, nặng 170 kg, bán kính miệng là 63cm (Tăng Hầu Ất là Vương Hầu Tên Ất của nước Tăng thời Chiến Quốc).
Chiếc Giám Phẫu này được phát hiện ở ngôi mộ Tăng Hầu Ất, Hồ Bắc vào năm 1978. Trên chiếc giám có khắc 7 chữ, ghi lại những việc Tăng Hầu Ất đã làm. Đây cũng được cho là một trong những chiếc “tủ lạnh” đầu tiên của người Trung Quốc.
Vốn dĩ Giám Phẫu là một loại chậu lớn bằng đồng được người xưa dùng để đựng nước và đá. Bên ngoài là một cái “Giám”, có thể đựng được nước, đồ ăn, rượu. Ban đầu nó được làm bằng gốm sứ. Sau khi cho nước hay đá lạnh vào đó có thể nhìn thấy rõ hình ảnh nên còn dùng để soi gương. Sau này người ta mới thay đổi chuyển từ gốm sứ sang làm bằng đồng.
Ở bên trong là một dụng cụ có tên gọi là “Phẫu”, giống như một cái chĩnh. Giữa Giám và Phẫu có một khoảng hở rất lớn, vào mùa hè có thể cho đá vào khoảng trống đó, còn mùa đông thì cho nước nóng vào. Sau đó, người ta cho rượu hoặc đồ ăn vào trong Phẫu. Như vậy có thể hâm nóng hoặc ướp lạnh đồ ăn, rượu.
Bởi vậy ngoài việc dùng cả Giám Phẫu, vào mùa hè đôi khi người xưa chỉ dùng Giám như một dụng cụ chứa đá, sau đó cho thực phẩm và thức ăn vào trong đó để làm lạnh, lưu giữ độ tươi ngon của đồ ăn. Bởi vậy Giám Phẫu thời xưa cũng có chức năng giống như chiếc tủ lạnh của con người hiện đại ngày nay.
Đến triều đại nhà Thanh, loại “tủ lạnh” làm bằng gỗ để tích trữ băng đá từ thiên nhiên đã được sử dụng rộng rãi. Khi đó loại dụng cụ này được gọi là “Thùng băng”, “Thùng dương”, chính là cải biến từ Giám Phẫu của người cổ đại. Nó thường được làm bằng các loại gỗ quý như gỗ lim, gỗ tử đàn, gỗ bách… Thùng có miệng rộng, đáy nhỏ, vẻ bề ngoài như hình cái phễu, mặt trên có một tấm gỗ dày làm nắp đậy, phần giữa có dây quấn bằng đồng, dưới có bốn chân để tránh bị ngấm nước.
Kiểu tủ lạnh này không những có vẻ bề ngoài đẹp mắt, mà còn thiết kế rất hợp lý, khoa học, hiệu quả lưu trữ đồ ăn rất tốt. Bên trong tủ thường lót chì hoặc thiếc, dẫn nhiệt tương đối kém để cách nhiệt. Điều này giúp kéo dài tuổi thọ sử dụng của băng, đá. Nước đá tan chảy cũng không làm hỏng lớp vỏ gỗ bên ngoài.
Thông thường tấm nắp đậy chia thành 2 khối, một khối gắn cố định trên miệng tủ, một khối khác có thể linh hoạt di chuyển. Khi sử dụng, người ta có thể dỡ khối nắp đó, cho đá vào trong, rồi để hoa quả và đồ ăn muốn ướp lạnh lên trên.
Ở dưới đáy tủ cũng có một cái lỗ có thể xả nước đá tan chảy ra bất cứ lúc nào, giúp cho tủ luôn được sạch sẽ. Ngoài ra cánh tủ cũng được điêu khắc chạm hình rồng cùng các lỗ thoáng để thông khí. Khi làm lạnh đồ ăn, khí lạnh trong tủ cũng đồng thời tỏa ra như một chiếc “điều hòa” giúp phòng trở nên mát mẻ hơn.
Giá thành để làm ra một cái tủ như vậy rất cao nên thông thường nó chỉ được sử dụng trong hoàng cung hoặc những gia đình giàu có. Bởi vậy những di vật lưu lại tới ngày nay là rất hiếm.
Vào thời nhà Đường, người ta còn sáng tạo ra một thiết bị tương tự như điều hòa của chúng ta ngày nay, tất nhiên kết cấu của nó hoàn toàn khác hẳn.
Vào thời ấy, các hoàng đế đã cho xây dựng một cung điện chuyên dùng để tránh nóng vào mùa hè. Trong cung điện này lắp một loại thiết bị chuyển động tự động. Loại thiết bị này áp dụng phương pháp tuần hoàn của nước, bánh xe cánh quạt chuyển động sẽ sinh ra gió, từ đó mang khí lạnh vào trong cung điện.
Đồng thời, người ta cũng dùng một thiết bị đưa nước lên tới mái nhà, để nước chảy men theo tường tạo hơi mát. Đây chính là loại thiết bị tự làm lạnh tận dụng hơi nước mà những bộ óc giàu sáng tạo của người xưa đã chế tác ra.
Ngày nay, ở một số ngôi nhà cổ của các thương nhân giàu có ở Giang Nam, người ta vẫn có thể nhìn thấy những căn phòng có điều hòa kiểu như thế. Ở một số nước châu Phi, trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt và cái nóng luôn lên tới 50 độ C, người ta cũng có một cách bảo quản thực phẩm không kém phần độc đáo.
Họ chế tạo một thiết bị gọi là Zeer Pot, gồm 2 chiếc chậu làm bằng đất nung xếp lồng vào nhau, ở giữa có 1 lớp cát ướt. Người ta tính toán rằng, nếu đặt Zeer Pot trong một môi trường cực khô có độ ẩm không khí rất thấp và có 1 luồng gió nhẹ thổi qua chậu liên tục, thì khoảng không chứa thức ăn bên trong Zeer Pot có thể hạ xuống tới mức gần 6 độ C, trong khi ngăn bảo quản thức ăn của tủ lạnh hiện nay là 4 độ C.
Tất nhiên đó là ở điều kiện lý tưởng, khi môi trường xung quanh chỉ khoảng dưới 20 độ C. Dù vậy, ở điều kiện thông thường, những người nông dân vẫn có thể bảo quản rau tươi suốt cả tuần không bị héo úa. Trong khi với nhiệt độ khoảng 40 độ C, rau sẽ rũ ra chỉ sau nửa ngày.
Trí tuệ của người xưa vẫn khiến con người hiện đại đi từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Những người mang thiên kiến cho rằng trình độ công nghệ của người xưa là lạc hậu, khi đối diện với những hiện tượng như trên thường không biết nói năng ra sao. Khoa học cổ đại thực sự đã rất phát triển. Có những điều con người hiện đại thực sự mãi vẫn không thể lý giải nổi vậy!
Kiên Định
Xem thêm:
- Tôn Ngộ Không phò Đường Tăng sang Tây Thiên lấy kinh nhưng rốt cuộc Tây Thiên nằm ở đâu?
- Bộ áo giáp Samurai và bí mật sức mạnh mang tên Nhật Bản
- Nỗi oan thấu trời xanh: Tại sao cô gái đẹp chết mà cả vùng gặp tai ương?