Thuở xưa ở trong một cái hồ kia có một con rùa và hai con cò trắng thường lui tới làm bạn với nhau…
Năm ấy trời đại hạn, suốt một năm trời ròng rã không có cơn mưa nào cả. Nước hồ cứ cạn dần dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời. Cỏ lác trong hồ cũng vàng úa tàn tạ. Chút nước còn sót lại nơi đáy hồ thì nóng hầm hập như một chảo nước sôi, vì thế mà các loài thủy tộc chết lần chết hồi gần hết cả.
Tình thế quá nguy nan, Rùa ta ngồi đứng không yên và trong đầu óc luôn luôn suy nghĩ một phương kế thoát thân khỏi cái địa ngục trần gian này. Đang bồn chồn lo lắng thì may thay lúc ấy hai vợ chồng nhà Cò Trắng đến chơi. Thấy bộ dáng thiểu não của chàng Rùa, hai vợ chồng Cò ân cần hỏi thăm:
– Chắc có chuyện gì buồn chăng? Mà trông bác có dáng lo nghĩ thế?
Rùa rầu rầu đáp:
– Hai bác ơi, tôi đang gặp phải đại hoạn nạn, phen này chắc chết mà không còn được gặp mặt hai bác nữa.
Cò Trắng chồng an ủi:
– Chúng ta là bạn bè thân thiết với nhau, sung sướng cùng chia thì hoạn nạn cùng chịu. Vậy bác hãy cho chúng tôi biết nguyên nhân nào làm cho bác phiền muộn, may ra chúng tôi có thể giúp đỡ bác chăng?
Rùa trả lời với một giọng lâm ly thống thiết:
– Không biết hai bác hồi này làm ăn thế nào, chứ tôi đây hai hôm nay chưa hề được lót dạ đến một nửa con tép chứ đừng nói gì là tôm cá, vì chúng đã chết hết cả rồi! Mà nước thì cứ cạn dần thế này, có lẽ sớm muộn gì thì tôi cũng không thoát khỏi bàn tay độc ác của lũ trẻ chăn trâu. Cách đây ba năm tôi đã bị chúng bắt một lần, may nhờ một bà già mua tôi về và đem đến chùa phóng sinh nên Rùa tôi mới sống sót đến ngày hôm nay. Vì thế mỗi lần nghĩ đến tai nạn, chết chóc, là tôi lại rùng mình, sợ đến buốt cả óc!
Trong lúc chàng Rùa đang vò đầu bứt tai than thở thì chị Cò vợ thương hại hỏi:
– Sao bác không di chuyển đi ở một nơi khác xem sao?
Rùa ta chạnh lòng đáp:
– Hai bác biết đấy, xưa nay tôi chưa từng đi đâu xa, đường sá thì muôn trùng hiểm nguy mà sự đi lại của tôi lại quá chậm chạp, nên tôi nghĩ thà chết tại nơi chôn nhau cắt rốn này còn hơn. Ngẫm cho cùng, đời chúng ta ai chẳng có một lần phải chết.
Bỗng chàng Cò chồng ngóng cổ nói lớn lên với một giọng đầy khảng khái và hy vọng:
– Thôi bác khỏi lo! Cách đây mười dặm, có một hồ sen không khi nào cạn, mặc dù là lúc trời hạn hán. Chúng tôi sẽ đem bác đến đấy, trước là giải quyết sinh kế cho bác mà sau nữa là anh em ta được gần gũi nhau trong lúc tối lửa tắt đèn.
Nhưng chàng Rùa vẫn lo ngại nói với vẻ thất vọng:
– Trời ơi! Mười dặm! Một dặm mà cả đời tôi đã chưa đi đến, huống nữa là mười dặm, thôi tôi đành chịu chết vậy!
– Ðiều ấy bác cũng không nên lo, chàng Cò tin tưởng nói. Chúng tôi đã có phương án; nhưng có điều hơi khó là bác cần phải bình tĩnh và can đảm.
– Bác nói thử xem, chàng Rùa vội vàng hỏi, khó thế nào tôi cũng cố gắng!
Cò chồng chùng giọng xuống nói với vẻ mặt đầy nghiêm trọng:
– Phương án là như thế này: Hai vợ chồng tôi sẽ tha một mẩu cành cây nhỏ mỗi người một đầu. Còn bác thì ngậm ở ngay đoạn giữa, chúng tôi sẽ tha bác đến cái hồ kia. Nhưng có một điều tối quan trọng, để không xảy ra nguy hiểm bác nên nhớ: trong lúc chúng tôi bay bác phải ngậm chặt vào khúc cây và không được nói năng hay hỏi han gì cả mặc dù có gặp phải tình huống thế nào đi chăng nữa. Chỉ cần bay trong vòng nửa giờ là chúng ta đến nơi. Bác nhớ nhé! Tôi dặn lại: Dầu gặp tình huống ra sao bác cũng phải ngậm miệng không nói, đó chính là vấn đề sinh tử.
Rùa ta ra vẻ hiểu biết, nói:
– Vâng tôi nhớ rồi, hai bác cứ yên tâm, tôi sống đến chừng này tuổi đời rồi, nay không còn hồ đồ nữa.
Sau khi sửa soạn xong xuôi, hai vợ chồng Cò Trắng lại thiết tha căn dặn Rùa lần cuối cùng:
– Ðó, bây giờ bác có muốn ho hen, đằng hắng hay nói gì thì nói đi. Chứ chốc nữa mà mở miệng thì nguy hiểm lắm đấy!
Nói xong, cả ba làm theo kế hoạch, bốn cánh Cò vỗ gấp gáp, hai cặp chân Cò duỗi thẳng đạp mạnh lấy đà, rồi từ từ bay lên khỏi mặt đất.
Rùa ta cắn chặt vào chính giữa mẩu cành cây, thấy mình được kéo lên cao dần, cao dần, rồi bay cao bay xa tít tắp… chẳng khác nào trong câu chuyện cổ tích vậy!
Bay được một lát, mặc dù lần đầu tiên thấy những cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt: đây cánh đồng xanh rì gợn sóng như tấm lụa màu ngọc bích khổng lồ, kia con sông trắng phau nằm vòng vèo như con bạch xà uốn khúc, và cây cối, và nhà cửa v.v… bao nhiêu là cảnh đẹp mắt.
Ðã bao lần chàng Rùa định mở miệng để hỏi cho thỏa tính tò mò, nhưng may thay mỗi lần định hỏi, Rùa ta lại sực nhớ đến lời dặn quan trọng của vợ chồng anh Cò Trắng tốt bụng. Nếu sự đời yên ổn thì nói làm chi, rủi thay, cuộc hành trình của vợ chồng Cò trắng và Rùa không qua khỏi cặp mắt tinh quái của lũ trẻ mục đồng!
Một đứa trong đám trẻ chăn trâu phát hiện chuyện lạ trước tiên, nó lập tức la lớn:
– Chúng bay ơi! Nhìn lên xem kìa! Hai con cò trắng tha một con rùa!
– A ha! A ha! Vui quá! Bọn trẻ đồng thanh hét ầm lên. Vừa hét chúng vừa nghển mặt lên trời mà chạy theo cổ vũ. Có đứa bất cẩn vì mải ngóng tuồng vui mà giẫm cả vào phân trâu nữa.
Một thằng bé to đầu nhất trong bọn hét lớn:
– A ha! Thật giống hai thằng què dắt một ông thầy bói mù. A ha! Thầy bói! Thầy bói! Thầy bói rùa bị cò bắt tha đi!
Cả bọn trẻ trâu lại hùa theo đồng thanh hét toáng: “Rùa bay! Rùa bay! Rùa thầy bói! Rùa vô dụng!”
Không dằn được tức giận, Rùa ta bèn mở miệng, định bụng hét lớn:
– Mặc kệ tao, mắc mớ gì đến chúng mày. Ðồ trẻ trâu!
Nhưng than ôi! Rùa vừa mới mới mở miệng ra, còn chưa kịp hét tròn vành một từ: “Mặc…” thì cậu ta đã vùn vụt rơi xuống, đụng vào một tảng đá và chết tan thây.
Lời bàn:
Người xưa vẫn có câu: “Bệnh nhập tùng khẩu; Họa xuất tùng khẩu”, ý tứ là: Bệnh nhập vào thân là từ cái miệng; Hiểm họa xuất hiện cũng là từ cái miệng.
Rùa kia vốn đã hồ đồ không biết giữ mồm giữ miệng lại thêm cái tật nóng nảy và cái tâm ưa tranh tranh đấu đấu với đời nữa thì đúng là: đại họa bên mình, thình lình khởi phát. Dù sao thì Rùa kia cũng đã chết rồi, nên thiết nghĩ không bàn thêm gì nữa.
Đường Tân