Đại Kỷ Nguyên

Cuộc đời đầy biến động của họa sĩ Caravaggio, người vẽ bức họa ‘Bắt Chúa Giê-su’ nổi tiếng

Caravaggio, (1571 – 1610) là đại diện chính đầu tiên của trường phái hội họa Baroque, nổi tiếng vì những bức vẽ đầy cảm xúc và sử dụng cách phối sáng gây cảm xúc mạnh mẽ. Ông được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử châu Âu.

Chân dung Caravaggio vẽ bằng đá phấn, khoảng 1621. (Ảnh: wikipedia)

Cuộc đời đầy biến động của người họa sĩ

Caravaggio (1571 – 1610) thường được coi là người sáng tạo và người dẫn đường cho các bức tranh mang phong cách nghệ thuật Baroque. Ông là một họa sĩ tôn giáo chân thành, thường xuyên ghé thăm La Mã nơi các nhà văn học tụ tập. Trong số các nghệ sĩ chuyên nghiệp, ông là người chân thành: nếu khách hàng muốn ông sửa đổi một phần nào đó của bức tranh, Caravaggio sẽ chẳng từ chối; nếu khách hàng không thích tác phẩm này của ông, ông sẽ đưa cho họ một bức tranh khác, những việc này đối với ông không có gì là to tát.

Tuy nhiên, trong rất nhiều ghi chép, Caravaggio cũng là một người tự phụ và cực kỳ nhạy cảm. Có thể thấy Caravaggio là một người đàn ông đầy mâu thuẫn.

Vào năm 1606 ông gây ra cái chết của một thanh niên trong lúc cãi nhau và lẩn trốn khỏi Roma với lệnh truy nã. Sau bốn năm lang thang, Caravaggio được ân xá, nhưng khi đang trên đường trở về Rome thì đột ngột tử vong. Khi chết, Caravaggio mới chỉ 39 tuổi, cái chết của ông gây ra nhiều nghi vấn, có người cho rằng ông bị sốt rét, một số khác cho rằng ông bị ám sát.

Phương pháp hội họa độc đáo

Trong cuộc đời của mình, Caravaggio bị vô số kẻ thù công kích và nói rằng ông sẽ không có chỗ đứng trong sự nghiệp hội họa. Vì vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, hầu hết các nghệ sĩ La Mã đều chịu ảnh hưởng của Michelangelo.

Michelangelo cho rằng một nghệ sĩ thực thụ chỉ có thể dựa vào những bức tranh theo trí tưởng tượng.  Mà Caravaggio rõ ràng đã sử dụng các mô hình để thực hành phong cách miền bắc Ý mà ông đã học như một người học việc ở Milan. Ông cũng sử dụng gương và ống kính để chiếu hình ảnh của mô hình lên giấy sau đó hoàn thành bản phác thảo rồi mới tiến đến khung vẽ (Hình 2). Ngoài ra, ông chủ yếu sử dụng hai tông màu để vẽ trên khung vẽ – hầu như luôn được thực hiện bằng màu đỏ, màu cam và màu vàng chanh. (Hình 3).

(Hình 2) (Ảnh: Art Renewal Center)
(Hình 3) (Ảnh: Art Renewal Center)

Bức họa “Bắt Chúa Giê-su”

Trường phái Baroque vận dụng mãnh liệt ánh sáng và bóng tối và sự chuyển dịch các tông màu tối không phải là phát minh của Caravaggio. Tuy nhiên, Caravaggio đã bổ sung phương pháp chiếu gương của người Hồi giáo vào trường phái này, điều này dẫn đến một cảm giác thực tế chưa từng có và tạo nên chủ nghĩa riêng của Caravaggio, cũng đặt cơ sở cho bức tranh nổi tiếng “Bắt Chúa Giê-su” của ông.

Nhà phê bình nghệ thuật thế kỷ 17, Giovan Pietro Bellori mô tả bức tranh nổi tiếng của Caravaggio – “Bắt Chúa Giê-su” (còn có thể được gọi là “Sự phản bội Chúa Giê-su” hay “Nụ hôn của Judas”): Sau khi Judas hôn Chúa, một tay anh ta đặt lên vai Chúa, một người lính mặc áo giáp vươn tay ra nắm lấy ngực của Chúa, Chúa đứng kiên nhẫn và khiêm nhường, chấp nhận và chịu đựng với hai tay đan nhau.

“Bắt Chúa Giê-su” – Caravaggio (Ảnh: Art Renewal Center)

Điều thú vị là trong bức tranh này, Caravaggio cũng đã thực hiện một thay đổi nhỏ trong tổng thể các tông màu thông thường của mình: thêm các mảnh nhỏ có tông màu xám xanh và xám lục vào khung cảnh. Hai sắc thái khác nhau được tập trung ở phần dưới bên trái của bức tranh, đóng một vai trò trong “vở kịch” này chặt chẽ đến mức kịch tính. Một điều thú vị trong bức tranh “Bắt Chúa Giê-su” chính là hình ảnh của người họa sĩ tự họa: Caravaggio là người đàn ông ở phía bên phải, cầm đèn lồng để chiếu sáng khung cảnh.

Chân dung tự họa của Caravaggio trong bức “Bắt Chúa Giê-su”, bộ sưu tập của Phòng trưng bày Quốc gia Ireland ở Dublin. (Ảnh: Art Renewal Center)

Số lượng phiên bản các bức họa

“Bắt Chúa Giê-su” được vẽ vào năm 1602 và nhanh chóng trở nên nổi tiếng, chính vì thế nó có rất nhiều phiên bản. Một phiên bản thuộc bộ sưu tập Bảo tàng Nghệ thuật Odessa ở Ukraine được đánh giá là bản gốc cho đến khi một phiên bản khác của Ireland xuất hiện vào năm 1990 (nay là Phòng trưng bày Quốc gia Ireland ở Dublin). Thực tế có đến 12 phiên bản của bức tranh này trên thế giới, nhưng hầu như quá khó để đánh giá cái nào là bản gốc.

Theo epochtimes.com

Uyển Vân biên dịch

VIDEO ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI XEM:

Exit mobile version