Thời kỳ Phục Hưng là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Hy Lạp cổ đại, đại biểu ưu tú của nền văn minh phương Tây. Đây được đánh giá là giai đoạn hưng thịnh nhất của mỹ thuật thế giới. Những tìm tòi mới lạ đã đem đến một luồng khí mới, trào lưu mới cho các hoạ sĩ. Trong giai đoạn này, nổi lên bộ ba bậc thầy vĩ đại về hội họa, kiến trúc, đó là Raphael, Michelangelo, Leonardo da Vinci
Raphael, tên đầy đủ là Raffaello Sanzio da Urbino (1483 – 1520) là họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý. Năm 1504, khi chỉ mới 21 tuổi, Raphael đã sáng tác nên tác phẩm nổi tiếng “Hôn lễ của Đức mẹ đồng trinh” dành cho nhà thờ San Francesco, Città di Castello.
Raphael còn nổi tiếng là đại diện xuất sắc với chủ đề “Thánh Mẫu tử”, một chủ đề rất hấp dẫn và đã tồn tại trong một thời gian dài. Bên cạnh số lượng lớn tác phẩm nghệ thuật có nguồn gốc từ nhà thờ để ca ngợi Chúa và làm nổi bật sự trường tồn và vĩ đại của Ngài, ông còn đặc biệt yêu thích sự thánh thiện, tình yêu và sự ngây thơ của chủ đề “Thánh Mẫu tử”. Vì vậy bản thân Raphael đã vẽ nhiều bức “Thánh Mẫu tử” trong cuộc đời mình.
Trong số đó, nổi tiếng nhất có thể kể đến những tác phẩm như “The Madonna del Granduca” (năm 1505), “La Belle Jardiniere” (năm 1507), “Tempi Madonna” (năm 1507), đặc biệt phải kể đến tác phẩm “Madonna Sistine” (năm 1514). Những bức tranh về “Thánh Mẫu Tử” của ông đã đạt tới sự hoàn mỹ về vẻ đẹp của Đức Mẹ, trở thành “khuôn vàng thước ngọc” hình ảnh Đức Mẹ kể từ đó cho đến tận thế kỷ 21 này vẫn không thay đổi.
Vào ngày 6 tháng 3 năm 1475, Michelangelo được sinh ra ở Caprese, gần Arezzo, miền trung nước Ý. Thở bé, Michelangelo được gửi đến Settignano, một ngôi làng gần Florence. Ngôi làng này nổi tiếng với công nghề tạc đá. Michelangelo được ở cùng những người thợ đá. Đây là tiền đề cho sự ra đời của một nhà điêu khắc tài năng.
Mười bốn tuổi, Michelangelo được cha gửi đến nhà người họa sĩ nổi tiếng Domenico Ghirlandaio bên ngoài thành phố Florence để học tập. Trong thời gian học việc, Michelangelo thường sao chép các tác phẩm của các họa sĩ đi trước.
Năm 1492, Michelangelo trở về nhà của cha ông. Trong thời gian này, với sự hỗ trợ của tu viện trưởng Santo Spirito của nhà thờ Florence, ông có thể sử dụng những thi thể trong bệnh viện của tu viện để nghiên cứu giải phẫu, khám phá bí ẩn về cấu trúc cơ thể con người. Đây là tiền đề quan trọng cho những thành công của ông sau này.
Tháng 11 năm 1497, viên đại sứ Pháp tại Tòa thánh – Jean Bilhères de Lagafas – đã ủy nhiệm cho Michelangelo thực hiện tác phẩm điêu khắc “Đức Mẹ sầu bi”. Công việc này được Michelangelo thực hiện tại nghĩa trang của Nhà nguyện Santa Petronilla và được hoàn thành hai năm sau đó, khi Michelangelo chỉ mới 24 tuổi. Tuyệt tác này đã tạo cho ông danh tiếng là một nhà điêu khắc vĩ đại.
Một tác phẩm khác không thể không nhắc tới của Michelangelo, đó là bức tượng “David“, đại biểu cho linh hồn của Florence.
Leonardo da Vinci tên đầy đủ là Leonardo di ser Piero da Vinci (1452-1519), ở thị trấn Vinci vùng Tuscan, cộng hòa Florence. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý.
Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố Firenze. Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ và tạo hình. Ser Piero đã chọn Andrea del Verrocchio làm thầy của Leonardo khi Verrochio nhận ra tài năng về nghệ thuật của Leonardo.
Trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1497 Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông, bức bích họa Bữa ăn tối cuối cùng trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie, theo yêu cầu của Ludovico Sforza. Đây là tác phẩm hoàn hảo nhất của Da Vinci, được đặt trong phòng ăn của Tu viện Santa Maria ở Milan. Với ý tưởng tuyệt diệu, ngôn ngữ cơ thể của nhân vật rất sinh động, tựa như một vở hí kịch trong đó mỗi người có một trạng thái nội tâm khác biệt. Năm 1980 nhà thờ cùng với bức tranh đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Da Vinci bắt đầu vẽ Mona Lisa vào khoảng năm 1503, bức tranh nổi tiếng thứ hai của ông. Tuy nhiên trong nhiều thế kỷ, nụ cười của “Mona Lisa” được cho là “độc nhất”, “tà khí” và “mê hoặc”. Mãi tới giữa thế kỷ 19 tác phẩm mới bắt đầu nổi tiếng khi các nghệ sĩ của phong trào Biểu tượng bắt đầu ca ngợi nó, và gắn nó với những ý tưởng của họ về sự bí ẩn của phụ nữ.