Hình ảnh ấy, bài thơ này như cùng ta vào một nơi xa xăm hun hút, thanh tịnh như chốn Thiên Thai… Tim ta đứng lại. Rưng rưng. Đó là bức tranh mô tả một ông lão áo dài, mặt gầy guộc đang lầm lũi, lướt thướt đi; thiên nhiên tiêu sơ, gò mả nhấp nhô và mênh mông nhòa nhạt đến vô cùng… Chỉ cần đọc hai chữ “Thanh Minh”, trong tâm khảm xưa đã nghe tiếng ngâm thơ chậm rãi ngày nào..
Tiếp theo Phần 1.
Cuộc bức hại tín ngưỡng “Hội Xương diệt Phật” triều Đường làm tâm linh Đỗ Mục tan nát
Năm 842, Đường Vũ Tông (chết ở tuổi 32) ra lệnh mỗi nơi chỉ được xây một ngôi chùa, buộc các nhà sư hoàn tục. Sang năm 845, cuộc đàn áp diễn ra với quy mô rộng lớn hơn. Chỉ trong một năm có tới hơn 260.000 tăng lữ bị bắt phải hoàn tục, nộp thuế như bình dân. Đã có hơn 4600 ngôi chùa bị phá hủy. Đất đai nhà chùa bị tịch thu, tượng Phật bị nung chảy để đúc đồng. Sử cũ gọi là “Hội Xương diệt Phật”.
Câu thơ của Đỗ Mục có thể dùng từ “đoạn trường” (đứt từng khúc ruột) một thi liệu quen thuộc. Thế nhưng ông lại viết “đoạn hồn“. Có lẽ những cuộc bức hại tín ngưỡng đang làm tâm linh ông tan nát!
Tại sao vào tiết thanh minh người ta náo nức với “Lễ tảo mộ” để hướng vào chốn tâm linh sâu thẳm; người ta náo nức với “Hội Đạp Thanh” để vui với mưa xuân rây trên cỏ biếc… Thì tâm hồn của họ Đỗ lại bị băm chặt ra từng khúc đớn đau khôn cùng như vậy?
Câu chữ bình lặng đánh lừa chúng ta. Nỗi đau này phải là bi kịch, kết tủa bao nhiêu nỗi niềm khó bày tỏ!
Câu thơ thứ 3 và 4 nối lại tường thuật một sự kiện tưởng chừng như chuyện vặt thường ngày:
“Tá vấn tửu gia hà xứ hữu” – (Ướm hỏi nơi nào có quán rượu)
“Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn” – (Trẻ chăn trâu chỉ xóm Hoa Hạnh ở đằng xa)
Câu hỏi của một lão già đi trên đường giá rét về một quán rượu đế nghỉ ngơi, để được ấm bụng không có gì đặc biệt. Cậu bé chăn trâu trả lời cũng tự nhiên như thế. Nó có lẽ đang dùng cái roi chăn trâu để chỉ về phía xa, nói với ông lão: “Quán rượu là nơi ấy”. Và địa chỉ của nơi ấy là một thôn làng có cái tên rất thơ mộng. Là danh từ riêng: “thôn Hoa Hạnh”!
Thơ Đường chỉ giới hạn có 4 câu: Đề,Thừa, Chuyển, Hợp. Vậy thôi!
Tác giả đã nói ra lời. Người đọc phải Đồng Sáng Tạo để đọc cái “ý ở ngoài lời” đó! Chúng ta có thể nghĩ rằng: Ông già đã có cái mà hỏi, có điểm đến mà đi. Như vậy, lão sẽ tới thôn Hạnh Hoa, sẽ ghé một quán rượu nào đó. Mọi tâm sự “dục đoạn hồn” sẽ tan biến trong ly rượu…
Chắc ai cũng tò mò muốn biết cái thôn Hạnh Hoa cụ thể này ở đâu? Và họ Đỗ tại sao lại ngẫu nhiên được ngồi uống rượu nơi này. Tra cứu tìm hiểu thì mới thấy nguyên lý: Hình tượng văn chương ở cấp độ nào nó cũng chứa sự hàm ẩn của Ẩn Dụ!
Cái ngày thanh minh mà hành nhân họ Đỗ đi trên đường với nỗi đau rứt từng mảnh linh hồn không hề liên quan đến một thôn Hạnh Hoa nào trong thực tế.
Đó có thể là một quán rượu ở thôn Hạnh Hoa xưa, nơi Đỗ một thời làm quan. Đỗ đã tới. Và giờ đây đang nhớ tới!
Cũng có thể cái thôn Hạnh ấy gợi về những điển tích “Hạnh Đàn, Hạnh Viên, Hạnh Lâm” trong văn hóa xưa?
* Hạnh đàn 杏壇 nơi đức Khổng Tử ngồi dạy học. Vì thế ngày nay thường dùng chữ hạnh đàn 杏 để chỉ giới giáo dục.
** Hạnh viên 杏園 vườn hạnh. Nhà Đường cho các học trò đỗ tiến sĩ vào ăn yến ở vườn hạnh nên tục mới gọi các người thi đỗ là được vào hạnh viên 杏園.
*** Hạnh lâm 杏林 rừng hạnh. Đổng Phụng 董奉 người nước Ngô thời Tam Quốc, ở ẩn tại Lư San 廬山, chữa bệnh cho người không lấy tiền. Người bệnh nặng mà khỏi, ông trồng năm cây hạnh, người bệnh nhẹ mà khỏi, trồng một cây. Chỉ mấy năm sau có hơn mười vạn cây hạnh thành rừng. Về sau hạnh lâm 杏林 chỉ giới y học.
Họ Đỗ đang đi trên đường mưa gió lạnh lẽo. Ông muốn giải thoát cái tâm phiền não đã kết băng bằng việc dừng chân trong một quán rượu. Muốn uống rượu thì nên hỏi người già. Bởi, đây là thứ của người già thường nhâm nhi. Tục ngữ đã đúc kết kinh nghiệm: “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Thật bất ngờ, ông quan họ Đỗ lại “tá vấn” với đứa trẻ chăn trâu.
Người họa sỹ vô danh nào đó vẽ thơ của Đỗ Mục đã rất tương tri với ông.
Tiết thanh minh đáng lẽ có lễ có hội; đáng lẽ ngựa xe như nước, dân làng già trẻ gái trai chật như nêm ra đồng để tảo mộ, ăn tết với người âm. Thế nhưng, mưa lê thê như Đông. Đồng không mông quạnh không có một bóng người. Chỉ có những ngôi mộ chơ vơ sạt lở rầu rầu những đám cỏ nửa vàng nửa xanh. Chỉ một con đường cái xa thẳm độc bộ một tâm hồn tan nát. Quan hệ xã hội chỉ có một ông Quan già. Và một ông Dân nhỏ… là bé chăn trâu.
Ngày thanh minh mà âm dương cách trở… Và hình như những rường mối nhân luân của xã hội đã lộn ngược. Hình như cụ Đỗ đang cố tìm một “niềm thân mật” của quan hệ làng xóm quê hương.
Nhưng chẳng thấy bóng dáng một thôn nào, làng nào trong tầm mắt. Hóa ra họ Đỗ đang muốn dừng chân ở một làng quê nào đó còn yên bình, còn có lễ nghi… Xa hơn nữa là một đất nước của thời Thịnh Đường Trinh Quán Lý Thế Dân.
Muốn biết tâm trạng của họ Đỗ khi ở trong tiết Xuân mà tất cả đều Đông lạnh thì chúng ta cần tìm hiểu thời kỳ Mạt Đường, Vãn Đường Tàn Đường mà Đỗ là chứng nhân. Đó là cái thời tình hình chiến sự nhiễu loạn hơn các giai đoạn trước. Vua bị quản chế, hoạn quan chuyên quyền, chia bè kéo phái, giết hại triều sĩ trung lương, tàn hại dân lành…
Thế nên họ Đỗ cũng có điều khó thổ lộ thẳng thắn như những thi nhân thời Sơ, Thịnh và Trung Đường. Đã không nói thẳng được thì nói kín đáo. Mà nói kín đáo thì phải dùng tỷ hứng, ắt lời lẽ bóng bẩy xa xôi mơ hồ…
Hãy đọc sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê: “Hơn một thế kỉ, từ loạn An, Sử, dân tộc Trung Hoa chịu đủ tai trời vạ người, nhiều nhất là vạ người. Vua thì xa xỉ (Hiến tôn cũng giống Huyền tôn), quan lại thì bất lực, tham nhũng, nội chiến rồi ngoại xâm, hết ngoại xâm thì bị ngoại nhân ức hiếp bóc lột, triều đình còn bóc lột mạnh hơn ngoại nhân nhiều, vì kho tàng nhà nước trống rỗng, phải tăng thuế liên miên, giá gạo tăng vọt lên nhất là những năm bị hạn, lụt, giặc giã: đời Thái tôn chỉ có 3 tiền một đấu, đời Huyền tôn 10 tiền, đời Đại tôn 1.400 tiền, đời Hi tôn 3.000 tiền“.
Sau khi Thái Tôn Lý Thế Dân mất, vua mới lên thay đại xá cho tù chỉ còn 50 người.
Đến thời Mạt Đường chiến tranh chết chóc thê thảm. Dân chúng phần thì chết, phần thì tiêu tán, có miền cả ngàn dặm không có một bóng người. Có lúc, ngay cả Đông đô Lạc Dương chỉ còn trên 100 hộ (mỗi hộ trung bình là 5 người).
Có nhìn thấy thảm cảnh này, chúng ta mới hiểu tại sao Đỗ Mục viết bài “Phú cung A Phòng” rất dài tố cáo nhà Tần:
“Sao lấy thì thu nhặt từng chút mà dùng thì coi rẻ như cát bùn!
Khiến cho cột đỡ rui nhiều hơn nông phu ngoài đồng; ”
Và ông kết luận :
“Người Tần không kịp tự thương cho mình mà đời người sau than thở cho họ,
Người đời sau than thở cho họ mà không biết lấy đó làm gương,
Khiến người đời sau nữa lại phải than thở cho người đời sau nữa.”
Những trang lịch sử quá bi ai, đã tạo nên những câu thơ quá bất thường.
Khi đọc bài thơ này có lẽ có một kênh khác nữa để cho chúng ta tham chiếu và hiểu thêm tâm trạng Đỗ Mục.
Chúng ta nếu biết được truyền thuyết về tiết Thanh Minh của người Á Đông thì sẽ thấy tên bài thơ không phải ngẫu nhiên.
Theo Phạm Thị Hảo thì “Trung Quốc có nhiều truyền thuyết về Thanh Minh. Được nói đến nhiều nhất là thuyết “Tưởng nhớ Giới Chi Thôi”. Truyền rằng, thời Xuân Thu (cách đây hơn 2.000 năm), sủng phi của Tấn Hiến Công là Ly Cơ muốn con trai mình là Hề Tề được kế vị, đã hại chết Thái tử Thân Sinh. Em trai Thân Sinh là công tử Trùng Nhĩ phải bỏ trốn đi lưu vong sang nước Tề, cùng với một số thuộc hạ sống gian nan khốn khổ, 19 năm sau, Trùng Nhĩ trở về nước, làm vua, trở thành Tấn Văn Công – một trong ngũ bá thời Xuân Thu.
Khi ban thưởng cho những người có công đi theo khi lưu vong, Tấn Văn Công bỏ sót một người đã tận tâm tận sức phò giúp mình là Giới Chi Thôi (còn gọi là Giới Tử Thôi). Lúc nhớ ra, cho đi tìm không thấy. Văn Công tự thân đi tìm thì Giới Chi Thôi đã đưa mẹ lánh vào rừng sâu. Không sao gặp được, Văn Công sai đốt rừng để Chi Thôi phải ra.
Nhưng rừng cháy 3 ngày vẫn không thấy ra. Vào tìm thì thấy hai mẹ con đã chết cháy dưới gốc cây liễu. Văn Công hối hận, đau lòng khóc lớn rồi cho an táng bên gốc liễu với tang lễ rất hậu. Một năm sau, vào tiết Thanh minh, Văn Công cùng tùy tùng đến thăm mộ, thấy cây liễu cháy tự nhiên xanh tươi lại, dưới gốc có hốc sâu, moi trong hốc thấy có bài thơ viết trên giấy đã vàng mục. Bài thơ có 8 câu, 4 câu cuối là:
“Thảng nhược chúa công tâm hữu ngã
Ức ngã chi thời ưng tự tỉnh
Thần tại cửu tuyền tâm vô quý
Cần chính, thanh minh phục thanh minh”
(Ví thử lòng vua vẫn có tình
Thì khi nhớ đến hãy kiểm mình
Nơi chốn cửu tuyền thần khỏi thẹn
Vì vua cần chính lại thanh minh)
Văn Công xúc động, bỏ tờ huyết thư vào trong tay áo, đưa về để thường xuyên bên cạnh, xem như lời nhắc nhủ của Giới Tử Thôi, khuyên mình phải luôn tu thân trị nước với tấm lòng trong sáng “cần chính, thanh minh phục thanh minh”. Rồi định ngày an táng Giới Tử Chi Thôi là ngày Thanh minh, dân chúng cả nước tưởng nhớ Chi Thôi, dần dần thành lễ hội Thanh minh.
Có thuyết nói Tấn Văn Công còn đặt ngày tưởng nhớ Giới Chi Thôi là Tiết Hàn thực, trong 3 ngày mọi người không được đốt lửa nấu nướng (vì thương Chi Thôi bị chết cháy), chỉ toàn ăn đồ lạnh nấu sẵn từ trước. Sau vì Tiết Hàn thực rất gần với Tiết Thanh minh nên dần dần hợp lại làm một.
Hoạt động trong lễ hội Thanh minh chủ yếu là tảo mộ, quét dọn quanh mộ, đắp cao thêm mộ, làm lễ cúng bái tổ tiên… Tục lệ này có nhiều ý nghĩa giáo dục nên rất được coi trọng.”
Một bài thơ gợi nhớ về một Trung Thần và một vị Minh Quân nhân đức.
Vẫn có những Giới Tử Thôi nhưng liệu có Tống Văn Công?
“Thanh Minh” của Đỗ Mục được viết như ngẫu nhiên, không trau chuốt. Có giai thoại mà các cụ ngày xưa thường kể: Rằng có cụ đồ khi rượu đã say phê bình bài thơ này mỗi câu thừa 2 chữ đầu. Vị chi là 2×4= 8 chữ. Theo “nhà phê bình” thì “Thời tiết vũ phân phân” đủ diễn tả cảnh mưa bay, không nhất thiết phải của tiết Thanh Minh; “Hành nhân dục đoạn hồn” cần chi có 2 chữ” Lộ Thượng”. Người này đi trên đường chớ không lẽ đi dưới nước. “Tửu gia hà xứ hữu” vốn đã là câu hỏi, thêm Tá vấn là thừa! “Dao chỉ Hạnh Hoa thôn”, ai chỉ cũng được, đâu cần Mục đồng mới chỉ được quán rượu… Thử đọc lại :
“Trời mưa bay lất phất
Người đi lạnh buốt hồn
Hỏi nơi nào bán rượu
Được chỉ Hạnh Hoa thôn”
Chỉ là bài đồng dao ngớ ngẩn của một một ông già!
Nguyễn Trãi cũng có bài thơ” Thanh Minh” nổi tiếng :
“Từ ngày lưu lạc rời quê cũ,
Bấm đốt thanh minh mấy lượt qua.
Ngàn dặm mộ phần đều khói lạnh,
Mười năm thân hữu thảy tiêu ma.
Trời quang mây tạnh khi bừng nắng,
Xuân vãn đồ mi đã trổ hoa.
Luống những ngập ngừng nâng chén rượu,
Cho vơi nỗi khổ nhớ quê nhà.”
(Trần Đắc Thọ dịch)
Đây là tấm lòng nhớ cố hương của người lưu lạc xa quê nhớ phần mộ khói lạnh của Tổ tiên. Nhưng người anh hùng ôm chí cứu nước đã nghĩ tới ngày xuân hoa nở, nắng tươi. Một tương lai đang đợi ông hồi hương trong hạnh phúc…
Trong gần 50.000 bài thơ của 2.200 nhà thơ Đường được sưu tầm thời nhà Thanh thì Đỗ Mục được gọi là “Tiểu Đỗ”. Người đời coi ông là hậu duệ xứng đáng của Thánh Thi Đỗ Phủ.
Trong các tác phẩm của Đỗ, người ta nhớ tới rất nhiều một hành nhân độc hành với tâm sự ngổn ngang dưới trời đầy mưa bay …
Phải chăng nó là tiên tri cho ngày kết thúc của một triều đại đã vãn, đã hư đốn không thể vãn hồi?
La Vinh