Một đặc điểm độc đáo của nền nghệ thuật truyền thống Trung Hoa là các loại hình nghệ thuật thường được phối hợp với nhau để cùng tôn lên giá trị của từng môn nghệ thuật riêng lẻ, cũng như tạo hiệu ứng nghệ thuật tổng hợp cho người thưởng thức, ví như kết hợp thư pháp với tranh, gốm sứ với họa, thơ với nhạc.
Việc giám định vẻ đẹp của âm nhạc có thể thông qua những bài thơ, bài từ, ca, phú của các văn nhân, từ đó làm nổi bật tinh hoa của cả âm nhạc và thơ ca. Hơn nữa văn hóa truyền thống Trung Hoa là văn hóa thần truyền; cho nên trong câu thơ điệu nhạc thường phảng phất những yếu tố thần tiên cao thâm.
Dưới đây điểm qua một số bài thơ nổi tiếng của các văn nhân cổ xưa, miêu tả về thanh âm của các nhạc cụ, xin được chia sẻ cùng với quý vị độc giả:
Nhạc Tiên
“Phạm Thành Quân kích động âm khánh” – Phạm Truyện Chính (thời Đường)
Lịch lịch văn kim tấu, vi vi hạ ngọc kinh.
Vi tường gia điệp cửu, thiên thức Động Âm danh.
Đạm trữ nhân gian thính, khanh thương cổ khúc thành.
Hà tu bách thú vũ, tự sướng cửu thiên tình.
Chú mục khán vô kiến, lưu tâm ký vị tinh.
Vân tiêu như khả thác, tá hạc hướng tằng thành.
Dịch nghĩa: “Nhạc khánh của Phạm Thành quân làm xúc động”
Nhiều lần nghe bản tấu vàng, nhẹ nhàng đến kinh đô
Hỏi dò tình hình gia đình đã lâu, chỉ biết được tên Động Âm
Lẳng lặng mong nhân gian lắng nghe, leng keng khúc nhạc thành
Đâu cần xem muông thú nhảy múa, thỏa thích chín tầng Trời
Chăm chăm nhìn chẳng thấy, để tâm nhớ (nốt nhạc) chưa tinh
Mây kia nếu có thể nhờ, mượn giùm hạc đến thành lầu
Phạm Truyện Chính là một thi nhân trong thời kỳ Đường Đức Tông, từng làm Tô Châu thứ sử, là một người vô cùng tài năng, ông có quan hệ khá thân thiết với Lý Bạch. Sau cái chết của Lý Bạch, ông tự mình viết lên trên bia mộ của Lý Bạch dòng chữ: “Tặng tả thập di hàn lâm học sĩ Lý công“.
“Phạm Thành Quân kích động âm khánh” là một bài thơ đại ý nói về âm thanh tiếng nhạc từ thiên cung truyền tới, nguyên là từ tiên nhân Phạm Thành Quân gõ vào chiếc khánh (khánh là một loại nhạc khí), thanh âm vang vang, điệu khúc êm tai, để cho ta đứng ngẩn ngơ hồi lâu, dù cho thời kỳ viễn cổ có trăm loài thú nhảy múa cũng khó so với vẻ đẹp này, ta lại nghe được tiên nhạc tuyệt diệu, thật sung sướng vô cùng, chỉ tiếc ở ngoài thiên cung, chẳng những không nhìn thấy, cũng không nhớ rõ, nếu có mây thì ta dựa vào, ta đem hạc cưỡi đến mà tiếp tục lắng nghe…
“Lịch lịch”, “vi vi” ở đây là hai từ giàu âm cảm, biểu thị sự tao nhã của tiên nhạc huyền ảo, khó mà đoán được. “Chú mục khán vô kiến, lưu tâm ký vị tinh” có ý càng chú ý càng không thấy, hãy chú ý đến vẻ đẹp tinh khiết, càng miêu tả tiên nhạc càng khó, không thể dùng nhạc khí dân gian để hình dung. Nếu miễn cưỡng mà ghi nhớ sẽ rất khó có cảm thụ lâu dài, chỉ có thể tu thành đắc đạo lên tiên giới mới có thể sáng tỏ.
Thanh nhạc
“Thính Dương Thị ca” – Đỗ Phủ (thời Đường)
Giai nhân tuyệt đại ca, độc lập phát hạo xỉ.
Mãn đường thảm bất nhạc, hưởng hạ thanh hư lý.
Giang thành đái tố nguyệt, huống nãi thanh dạ khởi.
Lão phu bi mộ niên, tráng sĩ lệ như thủy.
Ngọc bôi cửu tịch mịch, kim quản mê cung chinh.
Vật vân thính giả bì, ngu trí tâm tẫn tử.
Cổ lai kiệt xuất sĩ, khởi đãi nhất tri kỷ.
Ngô văn tích Tần Thanh, khuynh trắc thiên hạ nhĩ.
Dịch nghĩa: “Nghe Dương Thị hát”
Giai nhân tuyệt đẹp đang ca hát, đứng một mình, lộ ra hàm răng trắng
Người nghe buồn bã cả sảnh đường, âm thanh trong trẻo vang trong hư không
Trăng đã lên bên sông mênh mông thành quách, tiếng ca vang như rách đêm thanh
Già nua biết phận những năm tàn, tráng sĩ lệ như nước
Chén ngọc đã lâu không dùng đến, sáo vàng thổi theo từng cung bậc
Người nghe nào phải ngại ngùng, dù khôn hay dại, lòng đều đắng cay
Xưa nay ca nhân giỏi trên đời, đâu chỉ chờ một người tri kỷ
Ta nghe xưa có Tần Thanh, khiến cả thiên hạ nghiêng một bên tai.
Chữ của Đỗ Phủ rất đẹp, thơ ca rất tinh tế, là một trong những người được đánh giá cao về thơ ca cổ đại Trung Hoa. Ông được thế nhân sùng bái tôn làm “thánh thơ”, thơ của ông được gọi là “thi sử”.
Bài thơ mô tả một cách sinh động tiếng hát động lòng người của nàng Dương thị. Dương thị cùng tiếng ca, bất luận là lão nhân, tráng sĩ, kẻ ngốc, trí giả, người thưởng rượu, kẻ đệm đàn đều bị mờ mịt trước giọng ca này. “Thính giả bì” không có ý chỉ sự mệt mỏi, mà ý nói đến cảnh tượng được tạo thành từ thanh âm như phải kiệt sức. “Tâm tận tử” – trái tim đã chết càng làm nổi lên điểm này. Bài thơ này cho thấy những cảnh tượng tàn tạ khắp nơi sau “An Loạn sử”, mượn tiếng hát của Dương thị tới miêu tả, cuối cùng kết thúc với bài hát buồn thời chiến quốc Tần Thanh.
Nhạc đả, kích
“Phương hưởng ca” – Ngư Thù (thời Đường)
Nhạc trung hà nhạc thiên kham thưởng, vô quá dạ thâm thính phương hưởng.
Hoãn kích cấp kích khúc vị chung, Bạo vũ phiêu phiêu sinh tọa thượng.
Khanh khanh đang đang hàn trọng trọng, bàn qua túc phái minh giao long.
Cao lâu lậu tích kim hồ thủy, toái điện đả trứ sơn tự chung.
Hựu tự công khanh nhập triêu khứ, Hoàn bội minh ngọc trường nhai lộ.
Hốt nhiên toái đả nhập phá thanh, thạch sùng thôi đảo san hô thụ.
Trường đoản tham soa thập lục phiến, xao kích cung thương vô bất biến.
Thử nhạc bất giáo ngoại nhân văn, Tầm thường chích hướng đường tiền yến.
Tạm dịch: “Nghe nhạc cụ Phương Hưởng”
Trong nhạc có thể thưởng thức, vượt qua đêm sâu nghe tiếng phương hưởng,
Chậm chậm đánh từng hồi vang vào không chung, mưa xối xả trên mặt đất,
Leng keng leng keng trùng lặp, xoáy nước phát ra âm thanh của giao long (thuồng luồng)
Lầu cao từng giọt chảy xuống hồ nước, tia chớp đánh vào chiếc chuông sơn miếu,
Tựa như Công Khanh vào triều, ngọc bội đeo dọc trên đường dài,
Bỗng nhiện đánh một tiếng vỡ, đá thạch đập vào san hô
Dài ngắn kém sáu phiến, gõ âm cung âm thương không ngừng,
Nhạc này không dạy người ngoài, bình thường chỉ theo tiệc rượu an nhàn
Ngưu Thù – một thi nhân đời Đường, giỏi làm thiên trường ca (những bài hát dài). Bài thơ này miêu tả nhạc khí phương hưởng với đặc điểm âm thanh của nó. Phương hưởng được làm từ 16 phiến đồng hoặc sắt, khi trình diễn sẽ đưa người nghe vào trạng thái như “mưa bay thác đổ”. Tác giả trong bài sử dụng phép ẩn dụ khác nhau để miêu tả khí thế của nhạc khúc tấu từ phương hưởng, cùng với những miêu tả khác nhau để so sánh với tiếng nhạc.
“Khanh khanh đang đang” là tiếng vang trầm tĩnh hùng hồn có âm cảm, trong vòng xoáy nước của giao long thể hiện sự vang vọng âm thanh này. “Cao lâu tích thủy” để nói về tiếng nhạc chậm rãi, ung dung, “Đả sơn tự chung” để nói về tiếng nhạc nhỏ vụn, “Công Khanh nhập triều“, “Hoàn bội minh ngọc” là nói về sự thanh lịch, xinh đẹp của âm thanh. “Thôi đảo san hô tụ” nói về tiếng vang khi phá điệu khúc. Bài thơ này có đặc sắc là không sử dụng điển cố nào, từ ngữ trong bài đều rất gần với lời nói hàng ngày, hoạt bát lưu loát, sinh động tự nhiên.
Chuông
“Viễn sơn chung” – Tiễn Khởi (thời Đường)
Phong tống xuất sơn chung,
vân hà độ thủy thiển.
Dục tri thanh tẫn xử,
điểu diệt liêu thiên viễn.
Tạm dịch: “Tiếng chuông từ núi xa”
Gió đưa tiếng chuông từ núi
Áng mây đo nước cạn
Muốn biết thanh âm khắp nơi
Chim lác đác vắng vẻ xa trời
Tiền Khởi, tự là Trung Văn, là một thi nhân đời Đường, phong cách thơ rất rõ ràng, ưu nhàn, tài hoa, tiêm tú, đặc biệt giỏi tả cảnh, là một trong mười tài tử của Đại Lịch. “Viễn sơn chung” là một bài thơ miêu tả tiếng chuông trong núi thổi theo làn gió, hai chữ “xuất sơn” cùng với chữ “viễn” ở cuối cho thấy tiếng chuông ngân nga vang vọng. “Vân hà” và “độ nước” là hai hình ảnh phân ra chỉ trời và đất, một phóng khoáng, một thanh cạn, tạo nên một cảnh giới ưu mỹ, làm nổi lên thanh lượng của tiếng chuông, hai câu sau thiên về tả tiếng chuông biến mất như chim lác đác, cùng với từ “viễn” xuyên thấu qua hình ảnh, khiến cho người đọc cảm nhận được sâu sắc ý cảnh không gian. Những câu thơ ngắn mà ý cảnh sâu xa là đặc điểm của thơ Đường, trong bài không nói rõ hàm nghĩa, những trong từng chữ viết là ẩn dụ sâu xa, có thể nhìn ra được qua quan niệm nghệ thuật của nhà thơ.
Đàn Tỳ bà
Trích từ “Tỳ bà hành” – Bạch Cư Dị (thời Đường)
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ.Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn. Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu. Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ. Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn. Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt. U yết lưu cảnh thuỷ hạ than
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt. Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh. Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính. Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch. Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn. Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Dịch nghĩa: “Chơi đàn tỳ bà”
Nghe hoài niệm mấy dây đàn ấn xuống, tựa như dãi bày nỗi niềm bấy lâu
Hạ thấp lông mày, tay gảy khúc sầu, nói hết chuyện vô hạn trong lòng
Ngón buông, chậm vuốt, rồi lại gảy, trước là khúc Nghê Thường, sau là khúc Lục Yêu
Dây lớn ào ào như mưa táp, dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non, (nghe như) mân ngọc bỗng nảy hạt châu
(Nghe như) tiếng chim oanh ríu rít trong hoa, như suối róc rách chảy xuống ghềnh
Suối nước lạnh băng, dây đàn ngưng bặt, tiếng đàn ngưng bặt, bấy giờ bỗng yên lặng
Tựa có mối sầu hận riêng, lúc này không có tiếng động nhưng lại như có tiếng
(Bỗng dưng nghe như) Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, (nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, thét ngược tiếng đao
Nàng lướt tay qua bốn dây rồi chấm dứt, bốn dây vang lên một âm thanh như xé mảnh lụa
Thuyền phía đông tây không một tiếng nói, chỉ thấy vầng trăng thu trong vắt giữa sông
Bài thơ “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị là một bài thơ được yêu thích của rất nhiều thi nhân xưa và nay, đoạn trích này miêu tả đặc đặc về âm thanh của tiếng đàn tỳ bà, nổi bật ở những phần như:
“Tào tào” thể hiện cảm giác sâu rộng của dây đàn, “thiết thiết” thể hiện âm nhỏ vụn. “Như cấp vũ“, “tư ngữ” chia ra âm thanh lớn nhỏ phát ra từ sợi dây đàn, sau đó lại lấy “Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn” để miêu tả sự hài hòa của hai âm thanh khi quyện lại. Mặc dù âm thanh cao thấp bất đồng, nhưng khi nghe lại rất dễ chịu, hiện ra chỗ giống nhau trong chỗ bất đồng.
“Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt“, “U yết lưu tuyền thủy hạ than“, “Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt“, là câu thơ truyền thần biểu hiện tiếng tỳ bà xảo diệu biến hóa. “Thử thì vô thanh thắng hữu thanh“, câu thơ nói về hiện tượng lúc này không có tiếng nhưng lại như có tiếng, đó là do âm thanh trước đó vẫn còn lưu lại, mặc dù người đã dừng gảy đàn, tạo một cảm giác không gian rộng lớn, dư âm chuyển động của tiếng đàn tỳ bà vẫn còn quanh đây.
“Ngân bình sạ phá thủy tương bính“, “Thiết kỵ đột xuất đao thương minh” …Sau một dư âm đọng lại, tiếng đàn lại vang lên, hai câu trên mô tả sức mạnh cùng khí thế sinh động của nhạc khúc, vang vang có lực, khí thế tràn trề! “Khúc chung thu bát đương tâm họa” sau bốn câu mô tả tiếng đàn, lại một lần nữa im lặng, âm thanh lần nữa quay về tĩnh mịch, khác với sự im lặng trước đó vì đây là kết thúc thực sự. Đọc đoạn thơ này dường như ta đang được thưởng thức hoàn chỉnh một bài nhạc khúc, chỉ tiếc rằng không được ở tại đó mà thưởng thức.
Đàn Nhị hồ
“Trương Tinh Tinh hồ cầm dẫn” – Dương Duy Trinh (thời Nguyên)
Trương tinh tinh, thị tửu phục thị âm. Xuân vân tiểu cung anh vũ ngâm, tinh tinh trướng để yết hồ cầm.
Nhất song ngân ti tử long khẩu, tả hạ ly châu tam bách đấu. Hoa yên hỏa đậu bạo tuyệt huyền, thượng giác oanh thanh tại dương liễu.
Thần huyền mộng nhập quỷ công thu, tương sơn diêu giang giang đảo lưu. Ngọc thỏ vi nhĩ đình nguyệt cữu, phi ngư vi nhĩ dược thần chu.
Tây lai thiên quan tọa khảo lão, khương ti trù trù thính giả não. Trương tinh nhất khúc độc đương diên, khất dữ ngũ hoa kim tuyến áo.
Xuân phong tàn ti nhị thập niên, giang nam tương kiến lạc hoa thiên. Đạo nhân xuân mộng phi hồ điệp, thủ lộng kim biều hợp hoàng diệp.
Dịch nghĩa:
Trương Tinh Tinh, ham rượu ham thơ
Xuân Vân trong điện nhỏ ngâm thơ
Tinh Tinh sau màn chướng lên dây hồ cầm
Một đôi miệng rồng xiết 300 hạt ly châu
Dây cung gảy chỗ này như lửa như đậu vỡ
Làm bừng tỉnh chim oanh trên cây dưỡng liễu
Tiếng đàn như nhập quỷ thần mộng
Núi Tương, sông lớn chảy ngược
Thỏ Ngọc vì tiếng đàn mà dừng lên cung trăng
Cá chuồn vì tiếng đàn mà nhảy tận thuyền châu
Quan trên thiên cung ngồi sọt liễu
Khương Tơ nghe mà lòng phiền muộn
Trương Tinh một khúc một mình độc tấu
Xin làm áo khoác kim tuyến cho năm hoa
Gió xuân tàn hai mươi năm
Giang Nam gặp nhau vào ngày hoa rơi
Đạo nhân trong giấc mộng xuân hóa thành bướm
Tay gảy dây kim, hợp dây đàn.
Dương Duy Trinh (1296 – 1370) – một nhà thơ nổi tiếng cuối triều đại nhà Nguyên và đầu triều đại nhà Minh, hiệu là Thiết Tâm Đạo Nhân, ông là người có những bài thơ cổ phong phú và đầy màu sắc, vừa uyển lệ động lòng người, lại hùng tráng tự nhiên, lịch sử gọi ông là “Thiết nhai thể“, được nhiều văn nhân các triều đại sùng bái. Bài thơ này được viết khi ông nghe một màn trình diễn của Trương Tinh Tinh, trong bài ông đã miêu tả rất sinh động tiếng đàn nhị hồ (hồ cầm).
Đoạn thứ nhất nói “ly châu” là nói về truyền thuyết miệng ly long ngậm bảo châu, đem màn trình diễn hồ đàn, ví như miêng rồng nhả châu. Giống như trên bài “Tỳ bà hành” được Bạch Cư Dị dùng hạt châu lớn nhỏ để hình dung tiếng đàn, chỉ có điều ở đây nhạc khí bất đồng, nhưng vẫn có hàm ý lộ vẻ trân quý, hiếm thấy.
“Hoa yên hỏa đậu bạo tuyệt huyền, thượng giác oanh thanh tại dương liễu. Thần huyền mộng nhập quỷ công thu, tương sơn diêu giang giang đảo lưu.” miêu tả một âm vang vang có lực , tựa như vượt qua thời không, khiến chim phải giật mình, tài đánh đàn nhập quỷ thần công, làm cho núi sông điên đảo, thậm chí có thể làm Thỏ Ngọc đến tháng mà dừng lên thiên cung, làm cá phải bay nhảy. Tiếng đàn còn bay đến thiên cung, thần linh cũng có thể nghe thấy, Trương Tinh Tinh đàn một khúc có thể mở một bữa tiệc rượu trước sân nhà cho mọi người đến thưởng thức.
Âm sắc này còn khiến cho ông nhớ về một câu chuyện, giống như cảm giác du ngoạn Giang Nam nhìn thấy cánh hoa rơi. “Đạo nhân xuân mộng phi hồ điệp, thủ lộng kim biều hợp hoàng diệp“, đoạn này dùng câu chuyện cổ về Trang Chu mộng điệp: như ảo mộng, là Trang Chu hóa thành con bướm? Hay con bướm nằm mộng hóa thành Trang Chu? Liệu có phải đang thực sự ngồi nghe đàn, hay chỉ nằm mộng đến tiếng đàn này mà thôi!
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch