Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam, hát ru và đồng dao được xem như hai thể loại âm nhạc dân gian dành riêng cho trẻ nhỏ, gắn bó với giai đoạn đầu của một chu kỳ đời người. Trên thế giới, hát ru và đồng dao dường như là những thể loại không thể thiếu ở hầu khắp các dân tộc. Trong đó, hát ru là làn điệu dành cho phụ nữ, gắn liền với hình ảnh người mẹ.
Đố ai đánh võng không đưa
Ru em không hát, anh chừa rượu tăm…
Hát ru và sự đa màu sắc của ba miền
Bởi lẽ bên cạnh công việc nội trợ bếp núc, trông giữ, chăm sóc trẻ được xem như chức năng thiên phú của phái nữ. Mẹ ru con, mẹ bận thì bà ru cháu hay chị ru em… Đôi khi đàn ông trong nhà cũng tham gia đỡ đần, thay đàn bà ru trẻ ngủ. Nhìn chung, hát ru với mục đích chủ yếu là dỗ đứa trẻ ngủ ngoan để người ru còn quay sang làm việc khác, hoặc cùng chìm vào giấc ngủ với đứa bé. Hát ru để ngủ là vậy!
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Kinh vốn chiếm đa số và cũng có nhiều điệu hát ru hơn các dân tộc anh em khác. Đi dọc chiều dài đất nước, sẽ thấy có tới 3 làn điệu hát ru ứng với 3 miền Bắc- Trung- Nam, in đậm dấu ấn ngôn ngữ mỗi vùng. Đó là hát ru Bắc Bộ, hát ru Trung Bộ và hát ru Nam Bộ. Ở đây, do giọng nói vùng miền chi phối, nên đã hình thành những cấu trúc giai điệu khác nhau, phù hợp với thanh điệu cũng như thẩm mỹ âm điệu từng nơi. Chẳng hạn quan sát cùng một câu thơ, sẽ thấy 3 làn điệu hát ru 3 miền khác nhau như thế nào:
Hát ru Bắc Bộ:
Hát ru Trung Bộ:
Hát ru Nam Bộ:
Nhìn chung, dù đường tuyến giai điệu mỗi miền một khác, nhưng cả 3 làn điệu hát ru Bắc- Trung- Nam đều có cấu trúc đồng dạng: Mở – tiếp diễn – đóng. Trong đó, “tiếp diễn” chính là phần “gan ruột” của làn điệu, nơi người hát vận thơ thành lời ca để hát ru.
Cũng như nhiều làn điệu âm nhạc dân gian nói chung, hát ru dùng thơ lục bát- một thể thơ dễ làm, dễ thuộc để đặt lời ca. Bên cạnh đó, người ta cũng có thể dùng thơ lục bát dạng biến thể hay đôi khi dùng cả song thất lục bát. Nhưng những trường hợp đó không phổ biến vì được coi là khó hát. Bởi việc thêm từ hay đổi cấu trúc nhịp thơ ở mỗi vế sẽ gây nên sự xáo trộn nhất định. Thế nên người hát phải đủ tài ứng vận để đảm bảo đúng âm điệu của đường tuyến cơ bản.
Ở đây, một cặp lục bát được xem như đơn vị tối thiểu của phần “tiếp diễn” – tức phần lời ca của làn điệu hát ru. Có nghĩa nếu ít thì chỉ hát một cặp thơ cũng coi như trọn vẹn làn điệu, còn nhiều thì không có giới hạn. Như thế, hát ru thuộc dạng làn điệu có cấu trúc co giãn không hạn định. Bài hát ru kéo dài bao lâu là hoàn toàn tùy thuộc vào dung lượng, vốn liếng thơ ca của người hát, đồng thời phụ thuộc vào “kết quả” của mục đích hát ru – tức là đứa trẻ được ru đã… ngủ hay chưa?
Đặc tính co giãn không hạn định đó không chỉ có ở hát ru, mà còn thấy ở nhiều thể loại âm nhạc dân gian khác như hát ví, hát trống quân, hát cò lả, hát ghẹo, hát dặm, các giọng ngâm, cũng như các thể loại hò trên cạn, dưới sông nước… Với khả năng chuyển tải bất cứ một dung lượng thơ ca nào, đó là một cấu trúc mang tính thực hành cao, rất phù hợp với mục đích sử dụng làn điệu trong đời sống cũng như trong sinh hoạt âm nhạc của người dân lao động.
Bao bọc trước sau lời ca hát ru là phần “mở” và phần “đóng”. Đấy là những câu đưa hơi mang dấu ấn âm điệu vùng miền rất đặc trưng. Hát Ru Bắc Bộ và Trung Bộ thì đưa hơi là “À ơi!” hay “Ạ ơi!”. Riêng Hát Ru Nam Bộ thì đưa hơi bằng tiếng “Ầu ơ!”. Chính vì vậy, người dân Nam Bộ còn gọi làn điệu này là Hát Ầu ơ..
Tiếng đưa hơi của Hát ru Nam Bộ
Tiếng đưa hơi của Hát ru Trung Bộ
Riêng tiếng đưa hơi của Hát Ru Bắc Bộ có nhiều kiểu dạng.
Dạng đơn giản (hơi bắc đơn):
Dạng phức tạp (hơi bắc tạp)
Tiếng đưa hơi “À ơi!” mở đầu cho làn điệu để bắt vào câu lục. Khi muốn chia tách phần lời ca (hoặc giả do chưa kịp nghĩ ra lời thơ tiếp theo), người hát cũng dùng chính tiếng đưa hơi đó tiếp ngay sau câu bát để gối đầu, dẫn dụ sang phần lời ca tiếp theo. Khi đó, tiếng đưa hơi có giá trị như một đoạn chen, phân ngắt làn điệu liên tục dạng “Mở- tiếp diễn – mở- tiếp diễn – mở – tiếp diễn…” Như vừa trình bày, phần “tiếp diễn” dài hay ngắn (có nghĩa được ứng vận một hay nhiều cặp thơ liên tiếp) là hoàn toàn tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của người hát. Theo đó, một bài thơ dài có thể được phân ngắt theo nhiều cách khác nhau bằng những đoạn chen đưa hơi “À ơi!”. Khi kết thúc làn điệu, nét đưa hơi đó lại được xem là phần “đóng”.
Chính mục đích để ru trẻ ngủ mà nhịp điệu đặc trưng của hát ru thuộc dạng nhịp đôi êm ái, du dương, đều đặn, đồng điệu với nhịp đưa nôi, dễ tạo cảm giác dìu dịu gây ngủ. Thế nên khi người ta hát ru, bao giờ cũng bế đứa trẻ lắc lư, đu đưa theo nhịp câu hát, hay có thể vỗ về đứa trẻ, tác động phụ trợ với câu hát đưa bé vào giấc nồng.
Đặc biệt hơn, khi người ru bồng đứa trẻ nằm trên võng, nhịp đưa nôi của câu hát khi đó đánh đồng với nhịp đu đưa “kẽo kẹt” của chiếc võng, tất sẽ tác động mạnh hơn tới việc gây ngủ. Trong các loại hình âm nhạc dân gian, đây có lẽ là trường hợp duy nhất mà người hát trực tiếp “bồng bềnh, chao liệng” cùng nhịp điệu câu ca theo đúng nghĩa đen của nó.
Về mặt nội dung, người hát ru có thể vận dụng toàn bộ vốn liếng thơ ca của mình để đặt làm lời câu hát. Đó có thể là một cặp thơ, một chùm thơ hay cả một bài thơ lục bát. Bên cạnh vốn thơ ca sẵn có, người ta cũng có thể sáng tạo những lời ca riêng, biểu đạt cái tôi với nhiều cảm xúc.
Có thể nói, song song với mục đích ru trẻ ngủ đơn thuần, làn điệu hát ru là một cơ hội thuận tiện để người ta thỏa mãn nhu cầu nghệ thuật âm nhạc và thơ ca. Thông qua hát ru, mỗi người phụ nữ đều có thể bộc bạch nhiều tâm sự, kể cả những tâm tư tình cảm khó có thể nói bằng lời trong cuộc sống thường nhật. Theo đó, những người xung quanh cũng có dịp hiểu thêm người thân trong gia đình.
Đồng dao ghim vào ký ức tuổi thơ những gì đẹp nhất
Cùng là âm nhạc dành cho trẻ nhỏ, nhưng đồng dao lại hoàn toàn khác với hát ru – thể loại mà đối tượng thực hành là người lớn với ý thức về âm điệu, cung bậc rõ rệt. Ở đây, trẻ em lại chính là chủ sở hữu đồng dao. Chúng sẽ phải tự hát, tự diễn xướng các bài ca trong môi trường sinh hoạt đồng trang lứa. Như vậy, có thể coi đồng dao chính là loại âm nhạc diễn xướng đầu đời của một con người.
Nhìn chung, đại đa số các bài Đồng dao còn tồn tại đến ngày hôm nay đều không có giai điệu. Trường hợp như bài Bắt Kim Thang của trẻ em Nam Bộ là một hiện tượng hãn hữu. Ở đây, có thể thấy, với lứa tuổi chạy nhảy chơi đùa, miệng còn măng sữa, sự cảm âm chính xác về mặt giai điệu của đa số đứa trẻ bình thường là điều chưa thể hình thành. Mới hiểu tại sao các bài đồng dao tồn tại phần lớn đều dưới dạng vần vè, được diễn xướng với nhịp điệu rõ ràng.
Cũng do chủ nhân thực hành và đối tượng thưởng thức đều ở lứa tuổi nhi đồng- thiếu niên, nên đồng dao có vốn lời ca riêng với tính dị biệt đặc thù. Ở đồng dao, nổi bật nhất, đó chính là tính phi logic của nội dung các bài ca.
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà.ú ụ..
Cái cống là vật vô thực, được sử dụng một cách hồn nhiên, cốt để chắp nối vần vè. Và, dù là cái cống, cái bống hay cái trống thì tại sao nó phải nằm trong để cái ong nằm ngoài? Tại sao đang chuyện Củ khoai chấm mật, tự nhiên nhảy phắt sang chuyện Phật ngồi phật khóc, rồi chuyển ngay qua hình ảnh Con cóc nhảy ra, Con gà ú ụ? Ở đây, không gì giải thích hay hơn ngoài lẽ đơn giản, đó là sự cường điệu, phóng đại, ngoa dụ tự nhiên vốn đầy ắp trong trí tưởng tượng của trẻ thơ.
Trong toàn bộ các bài đồng dao, lời ca thường được lắp ghép ngẫu nhiên, chủ yếu để thuận miệng gieo vần. Phần lớn những hình ảnh sự vật, sự việc đều mang tính tượng trưng, được ghép nối bất kỳ theo những ý nghĩ ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ nhỏ. Chính sự phi logic lại là đặc trưng tư duy của trẻ em và làm cho chúng hài lòng. Nu na nu nống là gì? Trẻ con không cần biết, bài hát vẫn in sâu vào trí óc trẻ thơ và chúng chỉ cần được chơi vui, thế thôi!
Ở các bài đồng dao, lời thơ hầu hết thuộc dạng 3-4 từ, đôi khi 5-6 từ, gieo vần chân – vần rơi vào âm tiết cuối cùng của câu thơ. Đây là thể thơ và cách gieo vần đơn giản nhất trong thơ ca dân gian. Bởi thế, các bài đồng dao thật dễ nhớ, dễ thuộc, phù hợp với trí tuệ của trẻ nhỏ. Có thể tìm thấy nhiều hình tượng ngộ nghĩnh, các con vật gần gũi, hay hiện tượng thiên nhiên được mô tả thật ngây thơ:
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri
Chim ri …
Ru con. Họa sĩ Lê Phổ. 1940.(Ảnh:Printerest.com)
Khi nói về một sự việc, đồng dao thường không mô tả cụ thể, mà giành một khoảng rộng để trẻ phát triển trí tưởng tượng, rồi tự sắp xếp lấy trò chơi. Lộn cầu vồng là bài đồng dao gồm 6 câu thơ 4 từ, một ước mơ bay bổng trời xanh với chiếc cầu vồng tưởng tượng, như có thể sờ- nắm được trong trí óc ngây thơ của trẻ.
Lộn cầu vòng
Nước trong nước chảy
Có cô mười bảy
Có chị mười ba
Hai chị em ta
Ra lộn cầu vồng
Điều đặc biệt là nhiều bài đồng dao gắn liền với các trò chơi của trẻ nhỏ. Thường thì tên bài hát cũng đồng thời là tên của trò chơi tương ứng. Ở đây, điều lý thú là trẻ vừa chơi vừa học, tiếp nhận sự vật, sự việc xung quanh một cách sinh động nhất. Do đồng dao kết hợp với các trò chơi nên mỗi đứa bé đều phải lần lượt thay nhau diễn trò, đóng giả nhiều vai khác nhau- cả người và vật. Bởi vậy, đồng dao còn có ý nghĩa như một trò diễn dân gian trong quãng đầu đời. Đám trẻ tham gia được chúng bạn xem như những diễn viên nhí thực thụ.
Ở trò Rồng rắn lên mây, khi vào vai diễn, trẻ sẽ ý thức được sự đối lập giữa thầy thuốc và rắn- một con vật nguy hiểm, uyển chuyển lợi hại với nhiều khúc linh hoạt. Điều ngộ nghĩnh, kẻ thua cuộc trong trò chơi sẽ bị bắt làm thầy thuốc. Trong trò Thả đỉa ba ba, trẻ sẽ ý thức được sự nguy hại của con đỉa và con ba ba khi lội xuống nước. Một đứa đóng giả con đỉa đứng giữa sông để các bạn chạy qua chạy lại, cốt sao không cho “đỉa” tóm lấy. Đó là sự giáo dục tự thân nhẹ nhàng, không cần đến những lời dọa nạt của người lớn.
Với trò Nhong nhong nhong ngựa ông đã về, đứa trẻ kẹp cái que vào giữa hai đùi và tưởng tượng đó là một con tuấn mã, cầm thêm cái que nữa trong tay là thành cái roi ngựa hay thanh gươm, rồi tự tưởng tượng mình là vị dũng tướng nào đó, ra oai bảo vệ xóm làng. Ở trò Kéo cưa lừa xẻ, hai đứa trẻ vừa chơi vừa hát, như một sự rèn luyện thân thể với trí tưởng tượng vai diễn là hai ông thợ đang miệt mài xẻ gỗ. Hơn nữa, qua câu hát, các em cũng gây được một thông tin đáng chú ý rằng ai “thua” thì “về bú tí mẹ”! Điều đó rất hữu dụng trong việc giáo dục những đứa bé đã lớn mà không chịu cai sữa mẹ.
Có những lời ca tạo nên một mô hình đặc trưng. Dựa vào đó, trẻ có thể biến báo ra nhiều lời ca khác nhau dựa trên một nguyên tắc chung. Như bài “Chim ri là dì sáo sậu” cùng mô hình với bài “Kỳ nhông là ông kỳ đà” hay “Dưa chuột cùng duộc dưa gang”.., vừa là bài học về các loại chim thú, cây quả, vừa là bài học về mối quan hệ họ hàng thân tộc.
Với đặc tính tổng hợp các yếu tố như âm nhạc, thơ ca, trò diễn, hoạt động cơ thể.., Đồng dao thực sự là những sáng tạo thông minh của các “tác giả vô danh”. Vừa mang tính giải trí, vừa có tính giáo dục rèn luyện cho trẻ em trong những năm tháng ấu thơ, các bài đồng dao đã đánh thức, nuôi dưỡng và phát triển trí tưởng tượng phong phú, hồn nhiên của trẻ em.
Bên cạnh đó, do buộc phải cùng chơi, cùng ca hát, diễn trò theo nhóm nên đồng dao cũng là cơ hội rèn luyện tính cộng đồng, tình yêu thương đùm bọc cho một đứa trẻ để chuẩn bị hành trang vào đời trong tương lai. Đồng dao là một phần trí tuệ và tài sản văn hóa của dân tộc, được các thế hệ thiếu niên nhi đồng lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng dao đã mãi mãi đi vào ký ức thân thương của mỗi người trong chúng ta.
Thiện Lương (T/H)