Trong văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã xuất hiện một vầng sao Khuê. Dù rằng cuộc đời của ông vừa tới tuổi “tri thiên mệnh” đã ra đi; dù rằng thời gian để ông say sưa với rượu, thù tạc với bạn bè, giang hồ phiêu lãng trong Nam ngoài Bắc nhiều hơn bên bàn viết; thế nhưng, cùng với cá tính vô cùng đặc biệt, ông đã kịp để lại một sự nghiệp khá phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Thi sĩ tài năng ấy, vị ‘Khuê tinh bị đày xuống hạ giới’ ấy chính là Tản Đà.
Tiếp theo Phần 1
Nghiệp giai nhân
Tản Đà tự nhận mình là người vướng nợ giai nhân từ lúc lên năm!
Có lẽ cũng bởi ông chính là vị Khuê tinh đã tạo tội nghiệp “dám làm thơ liệng sang cung Quảng hàn bị chú Cuội bắt đem trình Thượng Đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới”.
Ông có ít nhất 4 mối tình. Tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ, Tản Đà lên núi Tiêu Sơn (Hương Tích) làm thơ tế Chiêu Quân, tịch cốc chỉ ăn hoa quả rồi mấy tháng ăn thịt. Vừa về Nam Định với anh, chàng trai 24 tuổi đã say đắm một cô gái 13 tuổi. Sau đó về Vĩnh Yên, chàng lại yêu cô con gái tri phủ Vĩnh Tường. Tham gia dàn dựng vở “Tây Thi”, Tản Đà phải lòng cô đào Liên theo kiểu tính yêu nghệ sĩ dưới ánh đèn sân khấu….
Thực ra, những mối tình của Tản Đà cho cảm giác những đường nét nhẹ nhàng của một áng mây một làn gió thu khẽ lay động mặt hồ. Một kiểu tài tử giai nhân, một kiểu thoáng thơm của bông lài bông lý. Nó trong khiết như một khúc Thư Cưu trong Kinh Thi đã được Khổng Tử san định!
Nghiệp văn chương
Còn tại sao Tản Đà vướng vào nghiệp văn chương? Cứ như là một sự ngẫu nhiên bất chợt. Cứ như một phút giây gặp gỡ mà thành trăm năm của câu chuyện vợ chồng?
Nếu đúng như những gì Tản Đà kể thì đây không đơn giản là ngẫu nhiên. Trên đời này không có gì ngẫu nhiên. Ông Cao Xanh đã an bài cho nhân vật này một sứ mệnh.
Không hiểu tự lúc nào, người Việt chúng ta có một suy nghĩ mặc định: Những vĩ nhân, những anh hùng cái thế như Lý Thường Kiệt ,Trần Hưng Đạo ,Quang Trung… mới xứng được đời sau tôn trọng. Những người tin vào số mệnh thì nghĩ rằng, đó là những người được lịch sử an bài. Và những nhân vật góp mặt vào diện mạo văn hóa của dân tộc hoặc nhân loại cũng đều là có an bài.
Hãy nghe Tản Đà kể việc ông sáng tác văn chương và vướng vào cái nghiệp này:
“Nguyên đã ba hôm không ăn, trong bụng hư không, lại một phen say rượu mê ly, thành ra từ đấy về sau, khác hẳn từ đấy về trước”. Và cũng từ đấy “sinh ra làm nhiều thơ văn quốc văn”.
Vâng, Tản Đà như một cái đập chứa ở cuối nguồn của thi văn và văn hóa dân tộc. Hình như ông được an bài để tích lũy những giá trị truyền thống đã một thời vang bóng. Những giá trị ấy như một hồ nước trong tinh khiết. Rồi nó ẩn trong rừng sâu đại ngàn xa lánh sinh hoạt của con người phồn hoa đô thị mang văn hóa mới của phương Tây.
Để đến một lúc nào đó, khi cái hồ nước mới nhiều uế tạp, bao nhiêu người cần “Ta về ta tắm ao ta”. Lúc ấy ta về với Tản Đà, về với truyền thông ông cha..
Trên cơ bản, thơ văn Tản Đà vẫn là thơ văn truyền thống của dân gian, của những Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… và ông cũng gần hơn với Nguyễn Công Trứ…
Tản Đà có phải là “ngông”?
Nói đến Tản Đà là người ta nghĩ ngay tới chữ “Ngông” – Cái phong cách này còn ảnh hưởng tới một nhà văn vốn tâm giao với Tản Đà là Nguyễn Tuân sau này.
Thực ra, cái “ngông” của Tản Đà hiểu trong chiều sâu xa là thái độ không chịu nhập cuộc, là sự dị ứng với xã hội kim tiền để tự hào với cái nghèo vật chất và giàu có về tinh thần. “Những nỗi chật vật của đời sống hằng ngày, những cảnh đời éo le thường phô bày ra trước mắt không từng làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh”.
Khi gặp đám dân đói rách trên tàu thủy, Tản Đà bỏ tiền chu cấp về Hải Phòng còn mời họ chụp ảnh lưu niệm; khi thăm Cửa Sót (Hà Tĩnh) ông bỏ tiền nhờ người dựng lều cho đám trẻ bơ vơ có chỗ che nắng mưa.
Ông khảng khái trả lời sứ giả viên quan họ Vi nếu muốn đòi tên dân đen Nguyễn Khắc Hiếu lên tỉnh có trát sẽ đi ngay, còn nếu muốn mời nhà thơ Tản Đà do có bụng liên tài thì phải đến túp lều cỏ của thi sĩ. Ngô Tất Tố đã kể lại buổi tiệc rượu ở Nam Kỳ, trong cơn say, Tản Đà đuổi bắt bạn như đứa trẻ thơ khiến Trần Qùy phải cau mày: “Làm cái gì thế? Người ta coi như cinema kia kìa”.
Tản Đà trả lời: “Ông phải biết cái thằng trong cinema nó không biết người ngoài là ai”. Chính họ Ngô đã kết thúc bài viết của mình: “Nhất sinh tư tưởng của ông Tản Đà có thể thu vào câu chuyện đó. Chính ông tự coi ông là một người bóng trong phim. Quốc dân, xã hội, mà đến cả thế giới nữa, đều là những người ngoài. Như thế, đối với ông, sự yêu ghét chê khen chỉ là sự thừa”.
Tản Đà, nhà văn của hai thế kỷ, gạch nối giữa nhà Nho tài tử và nhà thơ lãng mạn
Tản Đà là con người, là nhà văn của hai thế kỉ. Đó là gạch nối giữa nhà Nho tài tử và nhà thơ lãng mạn. Nhà Nho ấy vẫn ăn vận áo the đen, quần cháo lòng, uống rượu quê, vẫn giữ lối sống ung dung nhàn hạ, vẫn thường lui về ngôi nhà quê hương núi Tản sông Đà. Thế nhưng phần lớn cuộc đời ông thuê nhà ở thành thị, hì hục viết văn, viết báo để sinh nhai, tất bật chạy vào Nam ra Bắc để lo chuyện viết lách.
Tản Đà muốn mình là “Á đông Khổng phu tử chi đồ đệ” nhưng cũng rất kính trọng và muốn học Mạnh Đức Thư Cưu, Lư Thoa (Montesquieu; Rouseau) để xây dựng một sự nghiệp triết học An Nam có ích cho đời.
Tản Đà có gia đình, có cá tính rất riêng. Nhưng cơ bản để có một Tản Đà cho dòng văn học Việt Nam thì ông chính là con đẻ của buổi giao thời.
Thơ văn Tản Đà ra đời “giữa sự mong đợi của cả một thế hệ. Những bản đàn du dương như “khối tình” được đặc biệt hoan nghênh. Người ta mong đợi một người có thế tả được những nỗi chán nản, những điều ước vọng của mình, có thể ru mình trong giấc mộng triền miên – Thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu ra đời”. (Lê Thanh – Thi sĩ Tản Đà, 1939).
Sung mãn văn chương và vị trí quan trọng trên thi đàn
Đặt trong tình hình nền văn học nói chung và thơ văn quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nói riêng, ta thấy Tản Đà là một hiện tượng độc đáo. Giữa cái lác đác, thưa thớt của những tác phẩm và tác giả mờ nhạt, Tản Đà thật lực lưỡng và vạm vỡ. Ông cho ra đời trên dưới 30 tác phẩm với tư cách một nhà văn hóa phong phú và đa dạng. Ông quan tâm tới triết học, sử học, đạo đức, báo chí, ông viết văn xuôi (với tùy bút, tiểu thuyết, kịch, chú giải, bình chú…) ông dạo những cung đàn réo rắt báo hiệu trào lưu lãng mạn bằng những vần thơ bất hủ.
Vâng! Nói đến Tản Đà là người ta nghĩ ngay tới chân giá trị của một thi sĩ lớn. Ông làm tổ được trong lòng người đọc đương thời và cho đến hôm nay là nhờ ở những áng thơ trác tuyệt. “Dù viết văn gì, bao giờ Tản Đà cũng là một thi sĩ. Chỉ riêng thơ của ông là có thể làm cho ông có một địa vị quan trọng trên thi đàn”. (Vũ Ngọc Phan – Nhà văn hiện đại – Quyển II) “Giá trị chính xác của Tản Đà (…) phải tìm trong thơ của ông vì ông có cốt cách của thi sĩ, ưa cảm xúc, ưa mơ mộng hơn là lí luận”. Tuy “Văn tài của Tản Đà phát tiết nhiều nhất trong thơ ông; nhưng bản lĩnh Tản Đà thì văn xuôi của ông mới nói được hết”. Xuân Diệu đã lưu ý chúng ta như vậy.
Nói đến Tản Đà là nói tới sứ mạng tiên phong của người giải quyết nhu cầu canh tân văn học đầu thế kỉ. Tản Đà đã đưa cái “tôi” thành thực, không xấu hổ đặt giữa trang văn để nói lên tiên hầu trời hay chu du vào các xứ sở xa lạ trong quả địa cầu hay trên thiên đình. Tản Đà công khai tự thú về mình với những lo toan mưu sinh, với những tình yêu mây gió… Thơ Tản Đà tạo nên cuộc đối thoại đầy thân tình giữa nhà thơ và độc giả, mọi người thuộc thơ ông có lẽ là vì học đến được với tri kỉ, tri âm, đến được với chính mình. Cái tôi của Tản Đà nó ngông mà đáng yêu là bởi vì nó được quyền thành thực và mở cho người đọc nhiều đam mê khát vọng. Công chúng số đông thời Tản Đà đang có nhu cầu bức bách đòi giải phóng cá nhân như là một nhu cầu phát triển, họ đang chờ đợi nhà thơ của lòng mình và Tản Đà đã xuất hiện, gánh vác sứ mệnh ấy:
Còn trời còn đất còn non nước
Còn có văn chương bán phố phường
“Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ văn Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái “tôi”.”
Bao nhiêu lần tác giả đã công khai xưng danh mình:
Sông Đà núi Tản đúc nên ai
Trần thế xưa nay được mấy người
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một nhành mai
Có khi ông lên thiên đình ngâm thơ cho Trời nghe và xưng cái ngã, cái Tôi của mình. Tuy có bẩm, có thưa nhưng đối thoại thật thân tình:
Dạ bẩm lạy Trời; con xin thưa:
Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu, về Địa Cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt
Và đây là lời Tản Đà gửi bác Mai Lâm vì làm thơ khóc ông, tưởng ông đã chết. Có thể tìm được dấu đẳng thức giữa Tản Đà – cái Tôi và người tri âm kia:
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn
Còn ai thi sĩ, lại còn tri âm
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm. Mà lầm khóc nhau
Nếu tính 17 năm cây đại thụ Tản Đà cho ra nhiều hoa quả ngọt ngào nhất (1916-1932) thì tác phẩm gây tiếng vang đầu tiên là “Giấc mộng I” (1917), để rồi sau bao nhiêu mộng nữa ông xuất bản “Giấc mộng lớn” (1932). Tản Đà đã coi mộng là cái mộng con, đời người mới là cái mộng lớn – “Xử thế nhược đại mộng”. Mộng chỉ khác nhau dài ngắn mà thôi.
Hai tập du kí “Giấc mộng con” của Tản Đà say sưa kể chuyện đi khắp thế gian, gặp hết người này xứ nọ; Để rồi sau đó ông lên thiên đình tri âm với những danh nhân, mỹ nữ từng vang bóng một thời trên trần gian, trong quá khứ như Nguyễn Trãi, Quý Phi, Tây Thi…
Những giấc mộng của Tản Đà đều là phản ứng của ông với cuộc đời, với văn chương; là để cho tâm hồn lãng mạn đưa ông thoát li khỏi thế giới ô trọc, cũng là những cuộc gặp gỡ có thật ở một không gian khác.
Những gì Tản Đà viết vẫn là những giá trị vĩnh hằng bất biến của văn hóa xưa. Ngày ấy người ta cho nó là lạc hậu, mê tín, không phát triển.
Phật Gia, Đạo Gia từ ngàn năm nay chẳng nói tới thế giới sắc không? Vì thế Tam Giới này con người sống trong Mê lầm cứ dùng Danh, Lợi, Tình để mang ách vào cổ mình. Gánh càng nặng, con đường thiên lý dằng dặc của sinh mệnh càng mệt mỏi, cuộc luân hồi hay giải thoát càng khó đi.
Tản Đà chính là sống 2 thế giới, thế giới trần gian và thế giới của Phật Đạo Thần
Trên cơ bản Tản Đà đang sống với Lão Trang, với Phật Gia.
Vì thế, Tản Đà cho rằng “đời là một chỗ bắt người ta phải ở”. Đến những thế giới khác, những con người tầm cỡ, để sống để đối thoại là sự thực ở một không gian khác kia, là nửa kia cuộc sống của ông.
Người ta nói, thế giới thơ văn của ông là lãng mạn, là hoàn toàn tưởng tượng, song, thực ra đó là một thế giới mà ông có được những trải nghiệm qua nhiều con đường, nên ông tin rất thật.
Vì thế, ông mới tìm được “cái tự do trong sạch, cái độc lập thanh nhàn”, mới thấy “cảnh bao la bát ngát” của núi tuyết, sông Ngân… ông mới có tài văn chương để ngao du “một giải nước trong không đáy, hai thuyền con nhè nhẹ cùng bơi”.
Chỉ trong thế giới mộng (nhưng thực ra lại là thế giới thực ở một chiều không gian khác), Tản Đà mới thấy người ta tôn trọng cái thiên tài của mình: Thiên tài của những vần thơ “quỷ khốc thần kinh”, thiên tài của nhà văn kiêm triết học, luôn lo toan gánh vác quả địa cầu, luôn mong thực hiện cái sứ mạng gieo rắc đạo Thiên Lương mà trời trao cho.
Ở báo “Nam Phong” (1918), Phạm Quỳnh đã mỉa mai “… như chim bằng trong sách Trang Tử. Vùn vụt lại vùn vụt, mà chẳng biết đầu đuôi xuôi ngược cớ ra làm sao. Nhưng lạ thay! Đã đi thế sao không quá bước lên cung mây hỏi thăm chú Cuội!”.
Thực ra, cái điều Phạm Quỳnh bực tức lại chính là cái đóng góp của Tản Đà. Ông đã dám thành thực, dám trình bày khát vọng và cảm xúc thực của mình không che giấu; chia sẻ những điều mà người ta cho là chỉ cõi mộng mơ.
Họ Phạm sẽ rất ngạc nhiên nếu như đọc “Giấc mộng con II” Tản Đà đã giữ lời hứa. Lần này ông lên thiên đình thật! Ông gặp chú Cuội, ông cùng Đông Phương Sóc đi thăm cung Quảng Hàn.
Và có một lần, lúc canh ba, dậy đun nước uống, đi tung tăng ra sân gặp tiên mời về trời để đọc thơ cho Trời nghe:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè tươi nhấp giọng càng tốt hơi.
“Văn đã giàu thay lại lắm lối”
khiến cho:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ Trời
Và chính Trời cũng phê:
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết”
Chỉ có trong mộng nhà thơ Hầu Trời trích tiên ấy mới có được vần thơ tiên cách. Sự lưu đày nhà thơ tiên cách ấy dưới cõi thế là cốt đem cho đời cái đạo Thiên Lương. Với mộng, Tản Đà “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX với tấm lòng bình thản”.
Hết phần 2. Mời độc giả đọc tiếp phần 3.
La Vinh