Ta muốn ra khỏi ngôi nhà im ắng để tiếp xúc với phố xá phồn tạp ngoài kia. Có thể ngồi ở một trạm xe buýt nào đó…. Mặc cho người lên kẻ xuống. Mặc cho tiếng ình ình chát chúa của đám xe cộ căng dần những sợi dây thần kinh. Mặc cho nắng bức và ngột ngạt khói xe bụi đường… Ta sẽ ngồi viết về Hemingway cùng với tác phẩm mỏng như truyện ngắn để đời của Ông, và chuẩn bị một chuyến ra khơi cùng “Ông già và biển cả”.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn?
Cả đời của Hemingway cũng là một cuộc hành trình. Đi khắp nơi trên thế giới thì đâu đâu ông cũng chỉ thấy là quán trọ. Ông leo lên những đỉnh núi cao vút ở châu Phi. Ông lên chiếc thuyền cô đơn ra giữa trời nước mênh mang vùng Cu-ba để thả lưỡi câu của Khương Tử Nha.
Nhưng tính cách mạnh mẽ, tư duy vạm vỡ của ông chính là lao như cơn gió thốc vào lò lửa bát quái của những cuộc chiến đẫm máu. Ông là nhân chứng cho 2 cuộc chiến tranh Thế giới. Ông về Mỹ với mình đầy thương tích. Và tâm hồn thương tích nhiều hơn. Có những vết thương không lành. Luôn rỉ máu.
Ông nhận mình là “thế hệ bỏ đi“. Chứng kiến quá nhiều tư tâm ích kỷ của con người; chứng kiến những giá trị hư vô của kiếp nhân sinh, Ông cố vẫy vùng để thoát khỏi những gì hậu thiên mà bao nhiêu người hôm nay đang cổ súy: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn“.
Hemingway tích lũy quá nhiều cái sàng khôn, nên ông nhìn ra cái lý bên trong đó là sự dại khờ, Mê lầm của kiếp người.
Cuộc đời ba chìm bảy nổi của Ernest Hemingway
Người ta thường lấy chi tiết con cá “bơi đi, chiếc đuôi lớn vùng vẫy trong không khí” trong tác phẩm ở đoạn ‘Ông già và con cá kiếm‘ làm minh chứng cho thứ hình tượng ba phần nổi, bảy phần chìm của Hemingway.
Bởi, trước đó ông lão đã: “Ước gì mình nom thấy nó dù chỉ một lần, để ít ra thì cũng biết được là mình đang đương đầu với cái gì đây chứ” (trang 42) khi con cá nổi lên trên mặt nước thì có nghĩa là nó đã kiệt sức, khả năng kéo chiếc thuyền của nó không còn “một đường thẳng tắp” (tr.43), “những cái túi bên xương sống căng đầy không khí và nó chẳng lặn được xuống sâu” (Tr.49). Bởi thế nó bắt đầu lượn vòng.
Những ẩn dụ sâu sắc về cuộc đời
Ở đoạn trích, có một đoạn rất lạ nói về mối quan hệ giữa ông lão và con cá. Khi thì đối thoại: “Cá ơi đằng nào rồi mày cũng phải chết thôi. Mày cũng muốn tao chết theo mày hay sao?”
Khi thì độc thoại: “Cá ơi quả là mày muốn giết tao (…) đó cũng là quyền của mày thôi. Anh bạn cá kia ơi thân già này chưa bao giờ trông thấy một cái gì lớn lao, oai vệ, đường hoàng đẹp đẽ đến như anh. Đấy, anh cứ giết ta đi. Ta giết anh hay anh giết ta, cái đó ta nào có quản ngại gì”.
Khi thì lấy con cá làm cái gương cho mình phấn đấu: “Phải bình tĩnh và chịu nổi nhọc nhằn này sao cho xứng là một người. Hoặc cũng được như con cá”.
Ta biết rằng ông lão đã 74 tuổi, đã trải nghiệm rất nhiều về cái nghề đánh cá.
Lão phán đoán: “Cứ độ hai ba vòng nữa mình sẽ tóm được cu cậu (tr.82)” nhưng thực tế thì con cá đã lượn tiếp không biết bao nhiêu vòng nữa ngoài dự kiến kinh nghiệm nghề nghiệp của lão. Quả thật đây là lần đầu tiên trong đời, lão già gặp một đối thủ khác lạ – một đối thủ mà lão không dễ gì đánh quỵ.
Vâng, đây là đối thủ lão cần chinh phục chứ không phải là một địch thủ mà lão phải khuất phục. Cho nên đáng lẽ lão phải căm thù, phải nguyền rủa con cá chết tiệt đã quần thảo lão ba ngày đến kiệt sức, đến rã rời thì lão lại bày tỏ thái độ rất thân thiện.
Bao nhiêu lần gọi “Cá ơi” rồi “anh bạn cá kia ơi” rồi thì “anh” … Rõ ràng lão già đang tâm sự thân mật với đối tượng đánh bắt của mình bằng những lời âu yếm, bằng sự chia sẻ tâm sự, bằng sự công khai nói lên điều thán phục kính trọng (câu 4).
Thậm chí, lão đã tỏ cái thái độ yếu đuối thân già của mình mong con cá vì sự kiệt sức của mình mà hy sinh. Thậm chí dỗi hờn kết án con cá (câu 2), mối quan hệ thân thiện giờ đây đã bị đẩy xa ra, lão không gọi “mày, tao” mà là “anh, ta”.
Có cái gì đó như lời van xin năn nỉ đối thủ cần phải hiểu mình, cảm thông với mình mà nhượng bộ bằng sự hy sinh.
Rõ ràng, ông lão đã nghi ngờ khả năng của mình. Lão không khẳng định “mình phải giết nó (tr.55)” mà xác định “mình còn chống chọi được”.
Tại sao ông lão lại tâm sự với con cá tha thiết như vậy? Nếu những lần trước lão ra khơi, lão đánh bắt những con cá nhỏ như là chuyện đời thường, thì lần này lão đã vớ được một con cá lớn. Những lần trước chỉ cần khuất phục là đủ thì lần này lão phải chinh phục. Lão đã có đối thủ.
Sống trên đời này, có điều lạ là không có một đối thủ thì cũng thật là buồn. Vua cờ Murphy của Mỹ vì không có “kì phùng địch thủ” trở nên “độc cô cầu bại” mà chết trong buồn chán, tủi nhục.
Trên một phương diện nào đó, con cá lớn này đối với người đánh cá nhà nghề nó còn là kẻ tri âm, tri kỷ “bây giờ mình phải gắn bó với nhau” (tr.46) “nó cũng là người anh em của mình” (tr.55). Cho nên không phải ngẫu nhiên, khi con cá phải ra đi, lão già vui ít buồn nhiều cứ ý như “Chung Tử đi rồi lẻ Bá Nha” vậy. Chính lão đã hối hận: “Mình đã trót già đời rồi. Nhưng mình đã giết con cá này, nó là anh em của mình, và bây giờ thì mình phải gánh chịu lấy mọi nhọc nhằn” (tr.87).
Quả thật cuộc chiến đấu của ông già với con cá lại “Thấm đượm một tình yêu” với đối thủ.
Trong các tác phẩm, không phải ít lần ta bắt gặp những câu văn bày tỏ thái độ trân trọng, yêu thương con cá của ngư ông như vậy: “Nó cắn câu và kéo mồi đàng hoàng như một kẻ mày râu nam tử, nó tìm cách chống cự không hề hoảng hốt” (tr.44); “Cũng may mà những giống vật đó chẳng được tinh khôn bằng những kẻ săn giết chúng tuy chúng cao thượng và có sức khỏe hơn” (tr.58); “Con cá kia là bạn hữu của mình, mình chưa bao giờ trông thấy mà cũng chưa bao giờ nghe ai nói đến một con cá như thế. Tuy vậy mình phải giết nó “(tr.69);
“Thế nhưng con người có đáng ăn thịt nó không nhỉ? Không, nhất định là không. Chẳng một kẻ nào xứng đáng được ăn thịt nó, thử ngẫm mà xem, nó thật oai vệ và dũng cảm biết chừng nào!” (tr.70).
Yêu thương và trân trọng nhưng buộc phải giết những người anh em của mình phải chăng đó chính là bi kịch của chúng ta, của thế giới “trong thời đại chúng ta”?O
Ở thời mạt thế, vì ích kỷ cùng cực mà máu lửa, chiến tranh, mưu mô ác độc và bẩn thỉu xô nhân loại vào lò sát sinh với hai cuộc thế chiến tàn khốc… Phải chăng đó chính là câu chuyện phản ánh như tâm trạng ông già và con cá kiếm đó?
Phải chăng Hemingway “sứ giả của nhân loại” sống trong tâm xoáy của những biến động kinh hồn thế kỷ đã cho ta nhận thức ra cái trớ trêu ấy và ông thay mặt “thế hệ bỏ đi” rung những hồi chuông phản tỉnh chúng ta?
Con cá có phải chăng là mục đích mà nhà văn đeo đuổi để sáng tạo nên tác phẩm lớn nhưng “lực bất tòng tâm”? Nó có phải là khái niệm ước mơ, là khát vọng vô tận của con người muốn chinh phục mọi thứ bằng bản sự và ý chí của mình?
Giết chết một con cá, chinh phục một đối tượng khó chinh phục phải chăng Hemingway đã chứng minh cái mà nhiều người gọi là chủ đề của tác phẩm: “Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không bị khuất phục”?
Nhưng dư âm đọng lại về “nỗi buồn về thân phận con người trên thế gian này”.
Bản chất và ý nghĩa thực sự của chiến thắng lại là sự thất bại, phải chăng đây là một sự phi lý có thực, là nét đặc trưng của “thời đại chúng ta”?
Nó không chỉ là lời than thở: “Cá ơi, lẽ ra tao không nên đi xa đến thế này. Chẳng ích gì cho mày mà cũng chẳng ích gì cho tao. Cá ơi, lòng tao ăn năn lắm”(tr.101); “Ta thật tức là đã ra khơi quá xa như thế. Tao đã làm hại cả mày lẫn tao.” ( tr.106); “Ta đã đi quá xa” (tr.111).
Nó không chỉ là hình ảnh ông lão vác cột buồm “rồi nằm sấp lên những tờ báo cũ, hai tay dang thẳng, lòng bàn tay ngửa lên trời” khiến ta liên tưởng đến cụ Ma-bơp trong “Những người khốn khổ” của V. Huy-gô cũng ngã sấp xuống mặt đường đóng hình chữ thập như Đức Chúa chịu nạn…
Lão già phải vác cây thánh giá, phải tự đóng đinh mình khi mình gây tội “giết người anh em” là con cá đáng kính trọng “Nó đã chọn cảnh sống ẩn thân trong vùng nước sâu thẳm, tối tăm, xa các lưỡi câu, xa những phường nham hiểm…(tr.46)”
Lão già đã ân hận, đã ăn năn ngay sau khi giết cá, ngay sau khi giành thắng lợi, lão đã thấy sự thất bại rồi! (“Cá ơi, lòng tao ăn năn lắm – tao đã làm hại cả mày lẫn tao…”)
Những ai hiểu luật nhân quả, thì đều thấy đó là tiếng lòng tự sâu thẳm sinh mệnh, khi phạm tội sát sinh.
Tự nhận mình là “Thế hệ vứt đi” tự cô lập trên biển cả làm bạn với chim trời cá nước nhưng Hemingway vẫn là “con người xã hội” với những trăn trở lớn về nhân sinh, về xã hội, về thời cuộc.
Ông già và biển cả đã giày vò và đã dùng mọi lý lẽ của thời đại để hy vọng tội lỗi con người không đi quá xa: “Tuy vậy, mình cũng giết nó. May thay là người ta không buộc lòng phải giết đến cả những vì sao!”.
Hết phần 1. Mời độc giả đón đọc phần tiếp theo.
La Vinh