Thanh Minh là một trong những cái Tết (Tiết) quan trọng của người Á Đông xưa. Nền văn hóa xưa là Văn hóa Thần truyền. Mọi phong tục, lễ nghi quy phạm Đạo Đức của người xưa đều xuất phát từ Tin vào, Kính ngưỡng vào Thần. Do đó, mọi tập tục, với người xưa đều là sợi dây dẫn năng lượng nối con người vào Thế giới của Thần.
Tiếp theo Phần 1
Lễ và hội, “gần xa nô nức yến anh”
Lễ Tảo Mộ là thủ tục của cháu con đến bên mộ ông bà cha mẹ thắp hương, cúng vái, đốt tiền mã, gieo những thoi vàng bằng giấy để cho người âm có vàng, có tiền tiêu ở chốn âm gian. Đặc biệt, ngày lễ này người ta thường lấy đất đắp cho to cho cao những nấm mộ qua năm tháng gió mưa bị xói mòn hoặc bị trâu bò giẫm đạp mà sạt lở. Người ta bứng từng mảng cỏ bao quanh ngôi mộ, dùng cỏ giữ cho mộ không bị nắng mưa xóa dấu…
Ngày tảo mộ trong Tiết THANH MINH cũng là dịp mọi người ra không gian đồng nội thoáng đạt để vui chơi:
“Sóng cỏ non tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
…Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nuớc mây
Thầm thỉ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…”
(Hàn Mạc Tử)
Người đi hội trong tết Thanh Minh ấy đạp lên trên cỏ nên gọi “hội là Đạp Thanh”. Không khí lễ và hội ấy làm náo nức mọi người: “Gần xa nô nức yến anh”
Ai cũng phập phồng, ai cũng đợi chờ, ai cũng phấn chấn đón ngày vui..
Xuân Diệu cũng dùng “yến anh” như Nguyễn Du: “Của yến anh này đây khúc tình si”
Từ điển ghi: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. “Nô nức yến anh” ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân. Chị em Kiều cũng bị cuốn vào không khí lễ hội đó. Họ cũng chuẩn bị nhang hương, vàng mã và họ cũng rảo bộ ra không gian đồng nội mênh mông:
“Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
Thành phần những người đi trong tết Thanh Minh chắc có đủ nam, phụ, lão ấu; có người giàu kẻ nghèo; có quý tộc thượng lưu và cũng có dân đen lam lũ… Nhưng qua con mắt thiếu nữ, Kiều chỉ nhìn thấy: “Dập dìu tài tử giai nhân”
Những con người có thể thành đôi thành lứa, thành yến anh, thành trai tài gái sắc…”Tài tử giai nhân” như sóng biển dập dìu.
Ngựa xe có tài tử giai nhân thì chiếc này nối chiếc khác như dòng nước chảy liên tục không đứt đoạn… Áo quần ngũ sắc của tài tử giai nhân thì quấn vào nhau đan xen nhau như nêm vào xanh đỏ trắng vàng. Hội ĐẠP THANH thật nô nức thật tưng bừng: “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”
Cảnh vật của “lễ tảo mộ” gợi cho ta một không khí tan hoang, chướng mắt, chẳng hài hòa. Bức tranh xuân được thay thế bởi những những gì nhân tạo:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”
Chợt nhớ tới câu thơ trong “Tràng giang” của Huy Cận mô tả địa hình:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”
Nếu Tràng giang là dòng đời nghiệt ngã của định mệnh thì ngọn gió đìu hiu như có những âm hồn khắc khoải,nó lang thang trong những gò, những cồn mả nghĩa địa. Không gian Tràng giang là không gian của rợn ngợp không bóng người. Tất cả cái đã khuất dấu lẫn cái đang bị động trôi như cành củi khô đều thụ động xuôi mái buông chèo.
Cảnh thiên tạo của cỏ, của hoa lê trắng dù tiêu sơ nhưng cũng hài hòa tinh khiết.
Cảnh dương gian với cỏ, với hoa, với giai nhân, ngựa xe dường như biến mất. Thế giới âm gian hiện ra truớc mắt Kiều như một thoáng rùng mình để thẩn thờ:
“Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”
Người Nghệ Tĩnh đi lễ Thanh Minh thường sắm nhiều thứ để cúng ngay tại mộ. Ngoài hương nến, hoa quả, bánh trái… thì thứ không thể thiếu là vàng và tiền bằng giấy. Có người nói “thoi vàng vó rắc” nghĩa là người ta ngồi trên yên ngựa, rắc những thoi vàng hình khối chữ nhật. Vó ngựa tới đâu vàng rắc tới đó.
Nguyễn không muốn có thế giới người ở đây, trong lúc này. Nàng Kiều đang chứng kiến một Tết Thanh Minh không còn Hội. Cái “Lễ tảo mộ” này sẽ dẫn tới mộ Đạm Tiên, sẽ cho Kiều một phập phỏng bối rối không yên…
Những câu sau là cảnh chiều một ngày xuân thanh minh của ba chị em Kiều. Tà dương đang đổ bóng hướng Tây:
“Tà tà bóng ngả về tây”
Cả ba bộ hành trở về nhà. Có lẽ những gì sắm sửa cho lễ tảo mộ đã không còn lỉnh kỉnh lích kích nữa nên bước chân thì khoan thai, cánh tay thì khoáng hoạt, phong thái thì thơ thới, vô tâm vô tư, hạnh phúc:
“Chị em thơ thẩn dan tay ra về”
Họ cứ men theo, lần theo con suối nhỏ mà ngược dòng. Nguyễn Du gọi đó là “ngọn tiểu khê” cũng như sau này ông cho Kiều ở lầu Ngưng Bích nhìn cảnh vật từ cửa biển ngược thượng nguồn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa”
Buổi chiều, khung cảnh không còn NÉT nữa. Hình như đồng cỏ, bầu trời; chân mây mặt đất; hình như dòng suối và cảnh vật hai bên nó cứ bàng bạc xanh xanh không rõ ràng:
“Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh”
Thực cảnh mờ là để cho tâm cảnh lộ diện, có cơ hội bộc lộ:
“Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Không phải là “tiểu khê” mà là “dòng nước”. Dòng nước uốn quanh mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính. Dòng nuớc làm sao biết “nao nao”? Chỉ có lòng nhi nữ thảnh thơi thanh xuân “dan tay” cùng em mình ra về sau một ngày Thanh Minh thấy tâm trạng muốn ở muốn đi, dùng dằng mới “nao nao” như vậy!
Đến tận chót của “ngọn tiểu khê” có ghềnh nước. Một chiếc cầu không nhỏ mà là “nho nhỏ” bắc ngang…
Tất cả cảnh vật đều thu nhỏ lại trong buổi chiều xuân dưới cặp mắt thanh xuân của người thiếu nữ. Cảnh thanh sơ mà tình lưu luyến.
Cái nhìn sao mà vô tư, sao mà dính mắc, sao mà thản nhiên nhưng vời vợi những nỗi niềm.
Nhờ những từ láy “tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ” mà cảnh vật không còn khách quan nữa. Thật khó mà phân định rạch ròi những trạng thái của người ngắm cảnh…
Câu thơ tiếp theo, xuất hiện nấm mồ vô chủ:
“Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Tết tháng ba thanh minh của Nguyễn Du, của Kiều không phải và không thể là tiết tháng ba của mọi người.
Người xưa bình Kiều thường tìm tri âm tri kỷ với Nguyễn Du, với nhân vật của Ông. Các Cụ xưa thường tức cảnh sinh tình và làm thơ làm phú. NHÂN ĐỌC “CẢNH NGÀY XUÂN” CỦA NGUYỄN DU.
Ôi, Kiều ơi!
Tháng Ba Thanh Minh,
sao ngổn ngang buồn?
Hoa lê trắng thưa cành,
Chim én chao riêng một cánh,
Làm thoi đưa
dệt nốt những vô thường.
Thảm cỏ bạc màu xanh,
Ngổn ngang những oan hồn.
Đốt vàng mã
có ấm người dưới suối?
Ngọn tiểu khê
Kiều ngược dòng lặn lội,
Chiếc cầu ngang,
Cho nàng gặp Đạm Tiên
Mười lăm năm ma nào đưa lối?
Quỷ nào đưa đường?
Chàng Kim yêu vội,
Sở Khanh rẽ cương,
Thúc Sinh chia nửa vầng trăng,
Bối rối
Chim Hồng gãy cánh
Từ Hải chôn chân sừng sững giữa chiến trường.
Ông quan họ Hồ
Gieo cánh hồng xuống Tiền Đường.
Ầm ầm sóng,
Dựng trời mây xám
Cuộn bão tố mưa sa
Lớp lớp những giao long …
Bè lau thiêm thiếp.
Vô thanh.
Ai oán.
Thở dài.
Đoạn trường
Nhức nhối
bi thương…
Bàn cờ thế,
ngày đoàn viên tan nát..
Chàng Kim ơi!
La Vinh