Tết Đoan Ngọ có đơn giản chỉ là diệt sâu bọ? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu cuốn họa “Đoan dương cố sự đồ” của họa gia Từ Dương trong thời đại nhà Thanh sáng tác để hiểu ý nghĩa Tết Đoan Ngọ của người xưa
Cuốn sách họa “Đoan dương cố sự đồ” gồm 8 trang, mỗi một bức họa khắc họa hoạt động của con người cổ xưa trong ngày tết Đoan Ngọ, chủ yếu tập trung biểu hiện các thói quen phong tục tập quán địa phương. Bên cạnh các bức họa đều được đề tên bằng thể chữ Lệ, cũng ghi nội dung chú thích, thuận lợi cho người đọc hiểu được nội dung của bức tranh.
Bố cục của cuốn sách họa rất nghiêm ngặt, cẩn thận, hình dáng nhân vật sinh động, sắc thái nhu hòa tao nhã. Chúng ta có thể từ đây mà nhìn thấy tác giả nắm giữ thể vẽ của họa viện cung đình, tả thực tinh thần, cũng cho thấy đặc tính hội họa ngay ngắn tươi đẹp trong thời Càn Long.
Trên cuốn sách họa còn có các loại ấn của hoàng đế Càn Long: “Càn Long giám thưởng”, “Tam hi đường tinh giám tỳ”, “Nghi tử tôn”, “Nhạc thọ đường giám tàng bảo”, “Càn long ngự lãm chi bảo”.
Bức họa đầu tiên: Xạ phấn đoàn
Đề tự: “Xạ phấn đoàn, trong cung Đường đặt một hũ bột trên chiếc bồn, lấy cung nhỏ bắn, người bắn trúng thì phải ăn.”
“Xạ phấn đoàn” là một trò chơi thịnh hành trong cung vào thời nhà Đường. “Phấn đoàn” ở đây chỉ một loại điểm tâm, được làm từ bột gạo nếp, trong bọc hạt vừng, được chiên lên, sau khi được chiên mùi rất thơm, mọi người đều thích ăn nó.
Bức họa miêu tả một góc yên tĩnh và chỉnh chu của cung uyển. Có năm người đang tụ cùng một chỗ chơi “xạ phấn đoàn”. Năm người đều có thân hình cao ráo thanh tú, ăn mặc tao nhã, trên tay còn cầm quạt và những mũi tên để chơi. Trong ấy còn có người cầm quạt quạt lá cọ lớn cũng tới xem, có thể thấy các nàng là các nha hoàn vừa làm xong việc, chưa trả lại công cụ làm việc mà vội vàng tới chơi trò chơi. Nét mặt tràn đầy sự trông chờ, mong đợi. Có thể thấy rằng trò chơi này hấp dẫn biết bao người.
Bức họa thứ 2: “Tứ kiêu canh”
Đề tự: “Hán Lệnh Quận Quốc Công ban canh cho quan viên, lấy thịt chim ác làm canh”
Vào thời nhà Hán, chim cú mèo được cho là một con chim ác, vì thế hoàng đế Hán đại liền lệnh cho đất nước cống nạp càng nhiều cú mèo càng tốt. Sau đó sau người đem nó làm thành canh, ban cho trăm quan.
Bức họa này chỉ vẽ cảnh hai quan viên đang thu nhận canh. Hai người vô cùng lễ nghi, cúi người chắp tay, động tác truyền đạt hết sức thích hợp. Con người trong thời cổ đại có tâm tư đơn thuần, hội họa cũng không ngoại lệ. Ngoài các nhân vật trong tranh, bậc thanh, tường nhà, cửa sổ cửa chính, hành lang đều được thể hiện một cách hết sức đơn giản.
Bức họa thứ 3: “Thải dược thảo”
Đề tự: “Buổi trưa ngày mồng 5 đi hái cỏ thuốc chữa bệnh, vô cùng hiệu nghiệm”
Vào buổi trưa ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, mọi người sẽ lên núi để hái các loại thảo mộc, cỏ thuốc, nó có tác dụng bài trừ khí bệnh. Trong tiết Đoan Ngọ, vùng núi yên tĩnh, vang động tiếng gió, tiếng nước khe suối róc rách hòa quyện vào nhau.
Bức họa này được tác giả thêm màu sắc rất rõ rệt, phần lớn các khối đá đều được nhuộm màu xanh lá cây. Cho nên cũng có thể gọi nó là tranh thể loại “Thanh lục sơn thủy”, bởi phạm vi lớn sử dụng màu xanh lá, lại có thể ra sắc nồng nhạt khác nhau.
Ngay sau khi lên núi không lâu, một người lớn và một cậu bé tựa hồ như bị chìm đắm trong ngọn núi yên tĩnh này. Trong tâm trí họ dường như chỉ có thảo mộc, đặc biệt vào lúc buổi trưa, thảo mộc được hái sẽ có tác dụng hiệu quả nhất trong chữa trị.
Bức hoạ thứ tư: “Dưỡng cù dục”
Đề tự: “Đặt lông chim sáo lên đầu lưỡi, nuôi dưỡng những lời nói thiện lành”
Trước một ngôi nhà, có một người phụ nữ tay dắt một đứa trẻ nhỏ. Trên tay đứa trẻ là một con chim sáo, chúng như đang cùng nhau bàn luận. Nhìn biểu hiện của đứa trẻ đứng cạnh người phụ nữ như vô cùng thích thú, vung chân múa tay, như muốn lập tức muốn cầm vào con chim vậy.
Chim sáo, hay còn được gọi là “Bát ca”, thuộc họ chim Yến Tước. Màu lông đen tuyền, phần đầu và phần lưng ẩn hiện những đốm xanh lá xanh óng. Lông trên đầu nhỏ dài và nhọn, giống như lá liễu. Khi trưởng thành chúng có thể bắt chước được tiếng người, hay tiếng của các loài chim khác, vì thế nên chim sáo là đối tượng được các văn nhân nhã sĩ chọn lựa nuôi dưỡng.
Bức hoạ thứ năm: “Huyền ngải nhân”
Đề tự: Theo phong tục nước Sở, lấy cây ngải treo lên cửa, có thể đuổi khí độc”
Thực tế mà nói, tết Đoan Ngọ là một ngày lễ “thanh khiết, sạch sẽ”, mọi người vào ngày này đều cần lau dọn nhà cửa, quét tước sân vườn, treo nhành ngải, treo cành cây xương bồ, vẩy nước Hùng Hoàng (khoáng vật có sắc vàng dùng làm thuốc, có thể giải độc), uống rượu Hùng Hoàng trừ khuẩn phòng bệnh v.v. Trong mùa hè nóng bức có thể trừ tà, phòng độc. Vì thế mà gọi ngày lễ này là một ngày lễ “thanh sạch” cũng không có gì sai.
Lá và thân cây ngải có mùi vị khá nồng, có tác dụng diệt các loại côn trùng như muỗi, kiến, ngoài ra còn có thể lọc sạch không khí. Cây xương bồ cũng vậy, dân gian thường tin chúng có tác dụng trừ tà miễn dịch. Vì thế từ thời nhà Hán đến nay, nhà nhà đều cắm cành ngải trong tết Đoan Ngọ, sau này đến thời Đường chuộng cây xương bồ hơn. Còn có nhà đem lá ngải tạo thành hình người, treo trước cửa nhà.
Bức họa miêu ta hai người phụ nữ đang đứng trò chuyện trước cửa nhà, hướng về cây ngải đang treo. Bối cảnh trong tranh chủ yếu tập chung vào hình ảnh nhà cửa, kết cấu tường rào, cành dương liễu, cành hoa trồi từ đất và cành ngải treo trên cửa. Tác giả khắc họa hai người đang say mê bàn luận, nói chuyện vui vẻ không ngưng.
Thật ra, đơn giản điều hoạ sĩ muốn khắc hoạ ra chính là nội tâm của nhân vật, ông chọn màu sắc rất ôn hòa, nhạt đạm, nhưng lại làm nổi lên sự mát mẻ trong sáng, nhàn nhã khoan thai. Toàn bức họa toát lên vẻ tươi mới, ấm áp. Khiến cho người khác khi nhìn vào tinh thần liền trở nên sảng khoái.
Bức hoạ thứ sáu: “Hệ thải ti”
Đề tự: Hệ thải ti, buộc tấm lụa năm màu, cầu trường mệnh”
Vào ngày lễ Đoan ngọ, người ta thường dùng sợi tơ hoặc một sợi len ngũ sắc buộc vào cánh tay, cổ tay, hoặc đeo lên trước ngực đứa bé để cầu phúc trừ tà. Nam triều Lương Tông Lẫm “Kinh Sở tuế Thời Ký” có viết: “(Mùng 5 tháng 5) dùng sợi tơ năm màu buộc lên tay quân binh, sẽ giúp trừ ôn dịch.”
Bức tranh này khắc họa tấm lòng của những người nhỏ tuổi tặng người lớn tuổi trong gia đình. Tấm lụa ngũ sắc buộc lên tay, thể hiện tình cha con nồng thắm.
Bức họa thứ 7: “Khỏa giác thử”
Đề tự: “Lấy lá bọc bột nếp như âm dương kết hợp, để ca ngợi khoảng thời gian này.”
Nhìn kỹ vào bức họa, chúng ta thấy đây là quang cảnh một khu bếp sau nhà của một hộ gia đình giàu có, sung túc. Mọi người trong bức tranh đang bận rộn làm gì vậy nhỉ? Hóa ra là họ làm bánh ú (hay còn gọi là bánh tét của Trung Hoa). Người phía trên đang rửa lá, người phía dưới điều chỉnh nguyên liệu cho bột, mọi người phân công hợp tác lẫn nhau.
Đặc biệt tác giả đã khắc họa kết cấu căn bếp, cùng với việc bố trí người trong bức họa. Tổng cộng có 6 người trong tranh, 3 người lớn, 3 trẻ con. Nhìn sự tò mò nhón chân của đứa trẻ, có thể thấy chúng rất ham học hỏi, cũng gợi lên một gia đình có sự giáo dục nhất định.
Bức họa thứ 8: “Quan cạnh độ”
Đề tự: “Nhìn hội đua thuyền, đám người tụ tập đoán thuyền rồng nào sẽ thắng”
Để xem một cuộc đua thuyền rồng, mọi người đều dẫn theo bằng hữu, trẻ có già có, âm thanh ồn ào náo nhiệt. Đoàn người đứng cạnh bở sông, bên cây liễu cổ hơi rướn dài, căng mắt nhìn xem thuyền nào về nhất. Phía xa xa có chiếc thuyền rồng ra sức lao thật nhanh về phía trước, mỗi bên có 6 tay chèo, tộng cộng 12 người hết lực lao mình về đích.
Hàng người bên bờ cũng được mô tả rất sinh động, người cầm quạt lá, người cầm quạt xếp, những đứa trẻ con cầm tấm ván giống như chiếc mái chèo đồ chơi. Tất cả đều quay lưng về phía mặt sông. Người hàn huyền bàn tán, ông già râu bạc thì biểu tình như rất nghiêm túc. Mọi người đứng dưới cành liễu, lá liễu trong gió nhẹ nhàng chập chờn, tựa như cũng đang cổ vũ cho đoàn đua thuyền rồng.
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch