“Cầm” trong “Cầm, kỳ, thi, họa” là một loại nhạc cụ cổ xưa nhất trong lịch sử Trung Hoa, hiện nay có còn được gọi là cổ cầm hay huyền cầm. Cổ cầm đã được sản xuất từ rất lâu, rất nhiều những bài thơ lịch sử khắc trên cổ cầm có thể chứng minh điều đó, hơn nữa tên cũng những chiếc cổ cầm này còn gắn liền với những truyền thuyết thần kỳ. Trong đó nổi tiếng nhất phải nói đến “hào chung” của Tề Hoàn Công, “Nhiễu lương” của Sở Trang Vương, “Lục Khởi” của Tư Mã Tương và ” Tiêu vi” của Thái Ung. Bốn chiếc đàn cổ này được mọi người gọi là “tứ đại danh cầm”.
“Hào chung” – Tề Hoàn Công
“Hào chung” là cây đàn nổi tiếng của triều đại nhà Chu. Âm thanh của tiếng đàn rất lớn, giống như tiếng chuông kích động, tiếng kèn khiến người ta phải inh tai nhức óc.
Truyền thuyết kể lại rằng, gia đình Bá Nha đã từng gảy qua “Hào chung”. Sau đó “Hào chung” được truyền đến tay của quốc vương Tề Hoàn Công, nước Tề. Tề Hoàn Công là người thông hiểu âm luật, ông từng cất chứa rất nhiều những cây đàn nổi tiếng, đặc biệt yêu thích “Hào chung”. Ông đã từng ra lệnh cho người hầu gõ lên sừng trâu, ca hát và tấu nhạc cùng ông. Sừng trâu phát ra từng tiếng từng tiếng, tiếng hát thê lương cộng với sự hòa tấu nhịp điệu của “Hào chung”, khiến cho người hầu hai bên phòng cảm động đến rơi lệ.
“Nhiễu lương” – Sở Trang Vương
Người ngày nay có câu “Dư âm nhiễu lương, tam nhật bất tuyệt” (Dư âm như luẩn quẩn lượn quanh, ba ngày không dứt). Đúng với một câu chuyện: Vào thời đầu nhà Chu, một ca nữ tên Hàn Nga đi tới nước Tề, trên đường đi ngang qua nhà họ Ung, lúc đó cô không còn tiền để tiếp tục chặng đường, đành phải bán hát cầu thực. Khi nàng bắt đầu cất tiếng hát, âm thanh như vọt lên không chung bay lượn, như tiếng nhạn hót triền miên. Hàn Nga rời đi ba ngày sau đó, tiếng hát vẫn vang vọng giữa không gian, dư âm lượn vờn, mãi không chịu tiêu tan.
Cây đàn được đặt tên theo truyền thuyết trên – “Nhiễu lương” tức âm thanh mãi mãi ngân dài, dư âm không ngừng, đây cũng chính là đặc điểm của cây đàn. Nghe nói, cây đàn “Nhiễu lương” là một lễ vật được người đàn ông tên Hoa Nguyên dành riêng cho vua Sở Trang Vương, niên đại sản xuất của nó vẫn chưa được xác minh.
Sở Trang Vương sau khi nhận được cây đàn “Nhiễu lương”, ngày đêm gảy đàn làm vui, say mê trong nhưng tiếng đàn. Có một lần, ông thậm chí bảy ngày liên tiếp không lên triều, đem gác hết những công việc quốc gia đại sự sang một bên. Vương phi Phàn Cơ lo âu, khuyên nhủ Sở Trang Vương rằng: “Quân Vương, ngài đã quá chìm sâu vào âm nhạc rồi! Quá khứ, Hạ Kiệt vì quá đam mê cây đàn “Muội hỷ” mà đưa tới họa sát thân. Trụ Vương nghe những tà âm mà mất đi giang sơn xã tắc. Bây giờ Quân Vương yêu thích “Nhiễu lương” như vậy, bảy ngày không lên triều, chẳng lẽ cũng nguyện ý mất quốc gia cùng tính mạng sao?”
Sở Trang Vương nghe vậy như được cảnh tỉnh, nhưng lại không cách nào kháng cự lại được sự cám dỗ từ “Nhiễu lương”, vì thế mà ông đã sai người đập vỡ cây đàn thành nhiều mảnh. “Nhiễu lương” đã bị thất truyền từ đây.
“Lục khởi” – Tư Mã Tương
“Lục khởi” là một cây cổ cầm được văn nhân Tư Mã Tương nổi tiếng của triều đại nhà Hán sở hữu. Tư Mãn Tương vốn gia cảnh bần hàn, nhà chỉ đúng bốn vách, nhưng tài thi phú thì vô cùng nổi danh. Mộ danh Lương Vương mời ông làm một bài phú, Mãn Tương viết một trang “Như Ngọc phú” đưa tặng. Bài phú với ngôn từ lộng lẫy, khí vận phi phàm. Lương Vương hết sức cao hứng, liền đưa chiếc đàn “Lục khởi” bấy lâu cất giữ tặng cho Mã Tương.
“Lục khởi” là một cây đàn nổi tiếng truyền kì, trong đàn có chữ khắc: “Đồng tử hợp tinh”. “Đồng” tức cây trẩu, “tử” nghĩa là cây thị, “hợp tinh” ý chỉ sự kết hợp tinh hoa. Tài nghệ đánh đàn của Tư Mã Tương kết hợp với âm điệu tuyệt diệu của “Lục khởi”, khiến cho danh tiếng của “Lục khởi” vang xa một thời. Sau đó “Lục khởi” đã trở thành danh xưng cho cổ cầm.
Có một lần, Tư Mã Tương tới thăm bằng hữu, Trác Vương Tôn là người ngưỡng mộ lâu nay nên hết lòng thiết yến đãi khách. Đang lúc tửu hứng say nồng, mọi người mời Tư Mã Tương lên gảy một khúc đàn. Mã Tương từ lâu đã nghe danh con gái Văn Quân của Trác Vương Tôn tài hoa xuất chúng, tinh thông gảy đàn, hơn nữa cũng hết sức ngưỡng mộ mình. Ông liền đưa tay gảy bài “Phượng cầu hoàng”, Văn Quân nghe xong, hiểu được hàm ý khúc đàn, vì thế mà nàng cùng Tư Mã Tương kết mối lương duyên. Câu chuyện về Tư Mã Tương lấy đàn cầu tâm đã được đi vào giai thoại thiên cổ.
“Tiêu vĩ” – Thái Ung
“Tiêu vĩ” là một cây đàn được chế tạo bởi nhà văn học gia, âm nhạc gia Thái Ung của triều đại Đông Hán. Khi Thái Ung trong thời gian “Vong mệnh Giang hải, viễn tích Ngô hội” (lưu vong ở sông Trường Giang, rời xa nước Ngô), ông đã cứu một cành cây ngô đồng đang bị cháy dở, ông nghe thấy một thanh âm dị thường trong đám cháy. Thái Ung đã căn cứ vào độ dài của cành cây và hình dạng của gỗ mà làm nên một cây Thất Huyền Cầm, quả nhiên là thanh âm bất phàm. Bởi đuôi cây đàn lưu lại vết thương khói lửa, nên ông bèn đặt tên nó là “Tiêu vĩ”. “Tiêu vĩ” nổi tiếng với âm thanh đặc biệt cùng phương pháp chế tạo độc đáo mà trở thành báu vật tứ hải bấy giờ.
Vào cuối triều đại nhà Hán, sau khi Thái Ung bị sát hại, “Tiêu vĩ” vẫn được cất giữ nguyên vẹn ở trong thư viện hoàng thất. Hơn 300 năm sau, khi hoàng đế Tế Minh tại vị, vì muốn thưởng thức cao thủ chơi đàn Vương Thúc Hùng biểu diễn mà ông đặc biệt lấy chiếc “Tiêu vĩ” cất giữ nhiều năm ra, đưa nó cho Vương Thúc Hùng trình diễn. Vương Thúc Hùng gảy đàn liền 5 ngày, cao hứng sáng tác ra một bản “Ão não khúc” dâng tặng cho Tế Minh đế. Đến Minh triều, chiếc “Tiêu vĩ” rơi vào tay của sơn nhân Vương Phùng Niên.
Tất cả mọi đồ vật trên thế giới này đều có linh thể, là một sinh mệnh, có đặc tính, có linh hồn. Điều này đặc biệt đúng với các loại nhạc cụ. Một nhạc cụ tốt có thể là một đồ vật tới từ thiên thượng, có thể gặp mà không thể cầu. Những câu chuyện gắn với “Tứ đại danh cầm” khiến những chiếc cổ cầm mang màu sắc huyền thoại và sống mãi với thời gian.
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch
Clip ý nghĩa: Tôi đã từng là 1 “Anh Đại” trong đời!”