Ngọc, bởi hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt nên mới thành vật báu, và bởi kết tụ linh khí của đất trời nên mới thành vật thiêng. Núi vì giấu ngọc mà bừng bừng sức sống, nước vì giữ ngọc mà thuần khiết xanh trong.
Trong lịch sử có một viên ngọc vô cùng quý giá, trở thành quốc bảo truyền kỳ của người Trung Hoa. Ngọc tỷ ấy không chỉ là vật báu trong các vật báu, mà còn mang trong mình sứ mệnh đế vương: Chỉ những ai sinh ra làm chân mệnh Thiên tử mới xứng được giữ ngọc bên mình. Cũng chính vì lẽ đó mà trong lịch sử đã có bao nhiêu mưu mô toan tính, tranh tranh đoạt đoạt… chỉ để chiếm giữ ngọc tỷ này. Ngay cả Tần Chiêu Vương cũng vì viên ngọc ấy mà viết thư cho Triệu quốc để xin dâng 15 thành trì.
Vậy câu chuyện về ngọc bắt nguồn như thế nào?
Vào thời Xuân Thu, tại nước Sở có một tiều phu tên gọi Biện Hòa. Một hôm khi đang đốn củi dưới chân núi, ông tình cờ thấy con chim phượng hoàng đậu trên một hòn đá lạ. Trong dân gian lưu truyền câu nói rằng phượng hoàng sẽ không đậu vào đá nếu đó không phải là ngọc. Nghĩ rằng hòn đá ấy chắc hẳn là ngọc quý nên mới được nâng bước chân phượng hoàng, Biện Hòa bèn chạy tới và ôm ngọc về nhà.
Hôm sau Biện Hòa không đi đốn củi nữa mà mang ngọc dâng lên cho Sở Lệ Vương.
– Muôn tâu đại vương, đây là viên ngọc quý có một không hai, thảo dân xin được kính dâng đại vương!
– Được, mau mau cho người đi giám định.
Nhưng thợ ngọc của vua không nhìn ra giá trị, cho đó chỉ là hòn đá bình thường. Lệ Vương nghe nói vậy đã nổi trận lôi đình:
– Hừ, tên điêu dân to gan kia dám đùa bỡn với bản vương sao? Quân bay đâu, đem hắn ra chặt chân trái cho ta!
Biện Hòa hai hàng nước mắt như mưa trở về nhà, ông không ngờ thành ý của mình lại trở thành trái đắng.
Về sau Lệ Vương qua đời, Vũ Vương nối ngôi, Biện Hòa lại khập khiễng mang ngọc quý đến dâng vua. Nhưng lần này cũng vậy, Vũ Vương không tin đó là thật nên đã sai người chặt nốt chân phải của Biện Hòa.
Biện Hòa lại lê lết đôi chân tàn phế trở về nhà, từ đó ngày nào ông cũng ôm ngọc mà rầu rầu tủi tủi.
Không lâu sau Sở Văn Vương kế vị, Biện Hòa lại nhờ người khiêng ngọc quý đến cho vua, còn ông thì ngồi ngoài cửa Ngọ Môn mà khóc, đến nỗi hai mắt rỏ máu. Chuyện truyền đến tai Văn Vương, vua bèn cho gọi Biện Hòa vào và nói:
– Các vị vua trước đây đều tin đó là đá nên mới phế bỏ đôi chân của ngươi, sao ngươi vẫn còn tới đây làm gì?
– Thưa đại vương, thần đau lòng không phải vì bị chặt hai chân, mà là bởi ngọc quý lại bị cho là đá, lời nói chân thật lại bị cho là dối trá hoang đường.
Sở Văn Vương cảm động trước thành tâm thành ý đó, bèn cho gọi thợ chế tác ngọc đến:
– Các ngươi hãy xẻ hòn đá đó ra để ta xem đó đúng là ngọc quý hay chỉ là một hòn đá bình thường.
Quả nhiên, bên trong lớp đá xù xì thô kệch là ngọc quý lấp lánh, một thứ báu vật có một không hai: Ngọc ấy nếu để chỗ tối sẽ tự nhiên phát sáng, gọi là ngọc dạ quang. Nếu để chỗ ngồi thì mùa đông ấm áp, mùa hạ mát lành. Mang theo người thì trừ được trần ai, đuổi được ma quỷ, trong trăm bước ruồi nhặng và côn trùng không dám tiến vào. Tìm khắp thiên hạ cũng không thể thấy thứ ngọc nào uy lực như thế, cho nên mới nói là độc nhất vô nhị. Nhưng ngọc càng quý thì lại càng không dễ dàng hiển lộ, cần phải dày công bỏ đi lớp đá xù xì mới có thể nhìn ra chân ngọc, chân bảo vậy.
Sở Văn Vương rất vừa ý, bèn trọng thưởng cho Biện Hòa. Nhưng người tiều phu tàn phế ấy không muốn quan tước, cũng không cần bạc vàng, cứ một mực từ chối phần thưởng hậu hĩnh mà vua ban. Văn Vương vì cảm kích nên đã lấy tên của người tiều phu đặt cho vật quý, gọi là “Hòa thị bích”, nghĩa là ngọc bích họ Hòa. Từ đó, ngọc họ Hòa trở thành quốc bảo của nước Sở, danh tiếng lưu truyền khắp bốn phương.
Vì ngọc quý, xin đổi 15 thành trì
Ngọc bích họ Hòa trở thành quốc bảo của nước Sở suốt 300 năm, sau đó bị thất lạc. Không rõ viên ngọc đã qua bao nhiêu đời chủ, rơi vào tay những ai… chỉ biết rằng đến thời Huệ Văn Vương thì Hòa thị bích đã trở thành quốc bảo của nước Triệu.
Thời ấy Triệu quốc chỉ là một nước nhỏ, còn Tần quốc là nước lớn hùng mạnh. Nhưng vì Triệu vương có trong tay ngọc quý nên Tần vương mới nhún nhường, muốn thương lượng để đổi lấy ngọc về. Vua Tần là Tần Chiêu Vương đã viết thư gửi cho vua nước Triệu là Huệ Văn Vương rằng:
“Quả nhân từ lâu đã hâm mộ ngọc bích họ Hòa, tiếc là chưa được một lần chiêm ngưỡng. Nay nghe nói quân vương có ngọc ấy, quả nhân không dám xin không, muốn đem đổi 15 thành trỉ để tạ ơn, mong quân vương vui lòng suy xét”.
Vua Triệu nhận được thư thì vô cùng lo lắng. Vì Tần là nước mạnh, nếu không đưa ngọc thì sợ Tần đem quân tiến đánh, nhưng nếu đưa ngọc thì lại lo Tần vương thất hứa, khiến nước Triệu vừa mất ngọc vừa không được thành trì. Huệ Văn Vương bèn triệu họp quần thần để bàn kế sách, cuối cùng quyết định cử Lạn Tương Như sang sứ nước Tần.
Đến nước Tần, Lạn Tương Như dâng ngọc lên Tần Chiêu Vương. Vua Tần cả mừng bèn trao cho quan hầu và các mỹ nhân trong nội cung truyền tay nhau xem, nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến chuyện trao đổi thành trì.
Biết vua Tần có ý nuốt lời, Lạn Tương Như bèn tìm cách lấy lại ngọc quý. Ông nói:
– Thưa đại vương, ngọc bích tuy quý nhưng lại có vết, thần xin được chỉ cho đại vương xem.
Vua Tần vừa trao lại ngọc bích, Lạn Tương Như vội cầm lấy ngọc và lùi về phía sau tựa vào cột, dõng dạc nói:
– Đại vương vì muốn được ngọc quý nên mới hứa cắt 15 thành trì cho nước Triệu. Thần trộm nghĩ: ngay cả kẻ áo vải còn không dám dối nhau, huống hồ nước lớn. Nhưng nay đại vương vừa nhận được ngọc đã không muốn trả thành ấp cho vua Triệu, cho nên thần mạo muội lấy ngọc về. Nếu đại vương cứ muốn bức bách thần, thì cả đầu thần và viên ngọc sẽ vỡ ở cái cột này!
Tần vương thấy Lạn Tương Như cương quyết như vậy, vì sợ làm vỡ viên ngọc nên vội ngăn lại. Tần vương lại sai người cầm địa đồ đến và chỉ vào 15 thành trì sẽ cắt cho nước Triệu. Lạn Tương Như vẫn không tin, nên nói:
– Khắp thiên hạ ai cũng biết ngọc bích họ hòa là vật báu. Trước đây vua Triệu đã trai giới 5 ngày, lại yêu cầu khắp quần thần trong triều cùng vái lạy rồi mới cho thần mang ngọc đi. Ấy là vì trọng cái uy của nước lớn mà tỏ lòng tôn kính vậy. Nay xin đại vương cũng nên trai giới 5 ngày, sửa sang lễ đường, bày đặt nghi lễ tiếp rước, có vậy thần mới dám dâng ngọc.
Vua Tần không có cách nào khác nên đành nhận lời. Trong 5 ngày Tần vương trai giới ấy, Lạn Tương Như đã sai người hầu cận mặc áo vải thô, giả làm kẻ hành khất rồi bí mật mang ngọc bích về trả lại cho vua Triệu.
Thời hạn 5 ngày đã qua, Tần vương lên điện sai bày đặt lễ nghi, đồng thời mời các sứ giả chư hầu đến để xem ngọc bích.
Lạn Tương Như ung dung bước vào điện đường, vừa chắp tay lạy vua Tần vừa nói:
– Nước Tần từ thời Mục Công đến nay, tổng cộng hơn 20 đời vua, chưa từng thấy ai giữ trọn lời hứa. Kể xa thì Kỷ Tử lừa Trịnh, Mạnh Trinh lừa Tấn, kể gần thì Thương Ưởng lừa Ngụy, Trương Nghi lừa Sở… đều là bất tín bất nghĩa. Nay thần sợ bị lừa làm phụ lòng quân vương nước Triệu, nên đã sai kẻ hầu mang ngọc theo đường tắt trở về nước Triệu rồi. Vả lại, Tần mạnh mà Triệu yếu, đại vương chỉ cần cắt 15 thành trì cho Triệu thì Triệu đâu dám giữ ngọc để mắc tội với đại vương. Thần biết rằng lừa dối đại vương là tội đáng chết, vậy xin cứ việc bỏ thần vào vạc dầu, để chư hầu đều biết rằng vì muốn đoạt ngọc bích mà vua Tần giết sứ nước Triệu. Xin đại vương và quần thần bàn bạc kỹ cho.
Vua Tần nghe nói vậy, trong lòng sục sôi giận dữ, nhưng vì không muốn mang tiếng xấu nên đành tha cho Lạn Tương Như về nước.
Về sau, quả thật Tần không cắt 15 thành trì cho nước Triệu, và Triệu cũng không dâng ngọc bích cho Tần.
Ngọc quý nay về đâu?
Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đó. Sau này viên ngọc bích họ Hòa còn chu du khắp thiên hạ, được Tần Thủy Hoàng đem chế tác và trở thành ngọc tỷ truyền quốc, sau đó từ tay Tần rồi lại đến với nhà Hán, lưu lạc sang nhà Tào rồi lại về với dòng họ Tư Mã… Từ quân Hung Nô cho đến vương người Hán, từ Lưu Tống, Lương, Tùy, Trần, Nguyên… cho đến đời Minh, Thanh, bất cứ bậc quân vương nào cũng ao ước được độc chiếm ngọc tỷ trong tay mình.
Cũng từ khi được Tần Thủy Hoàng chế tác thành ngọc tỷ, Hòa thị bích trở thành tín vật “Hoàng quyền thần thụ” (quyền lực hoàng đế là Thần trao cho), “thụ mệnh ư Thiên” (nhận mệnh Trời ban). Chỉ những bậc quân vương nắm giữ ngọc tỷ trong tay mới được công nhận là chính thống, là chân mệnh thiên tử. Ngược lại, không có ngọc tỷ mà cai trị thiên hạ thì sẽ chỉ là “bạch bản hoàng đế” (hoàng đế lập khống), không được quần thần tín phụng.
Ngọc tỷ đã trải qua các đời đế vương, bắt đầu từ Tần Thủy Hoàng rồi sau này là Tào Tháo, sau nữa lại là Đường Thái Tông, Khang Hy đại đế, v.v. Nhưng sau khi chế độ quân quyền kết thúc thì ngọc tỷ cũng đột nhiên biến mất, để lại một câu hỏi bỏ ngỏ trong lòng thế nhân: Những người nắm quyền cai trị, phải chăng không còn ai xứng đáng làm “Thiên tử”, không còn ai xứng là mệnh Trời ban?
Tâm Minh