“Vô thường” trong truyền thuyết là sứ giả câu hồn của Âm phủ. Có người sống bị Âm phủ phái đi làm đương sai vô thường, nguyên thần của họ có thể tự do xuất nhập hai cõi âm dương, họ được gọi là “tẩu vô thường” hay là “hoạt vô thường”. Trong cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký” của Kỉ Hiểu Lam cũng có câu chuyện về “tẩu vô thường”, họ xuyên việt âm dương, nhìn thấy căn nguyên của phúc họa rốt cuộc như thế nào.

Tại sao lại làm vợ lẽ của gia đình phú quý? Trong mệnh có con hay không con có thể cải biến không?

“Hòe Tây tạp chí 2” ghi lại rằng, có một bà lão tẩu vô thường trong gia đình họ Tào ở thị trấn Khánh Trạch, Võ Thanh Vương, Thiên Tân. Bà lão này thường xuyên qua lại với gia quyến của một số quan chức gần đó. Một ngày nọ, một số cơ thiếp của nhà quan đến tìm bà hỏi chuyện. Trong đó một người bắt đầu hỏi: “Chúng ta, những người vào nhà phú quý làm vợ lẽ của người ta, việc này nhân quả là gì?”

Bà lão đáp: “Trong pháp luật của cõi âm, việc thiện nhỏ ác nhỏ có thể bù đắp cho nhau, nhưng thiện lớn và ác lớn thì không thể bù đắp cho nhau. Các cô đều là vì quá khứ đã tích lũy được một số thiện quả, do đó kiếp này có thể bước vào gia đình phú quý; Nhưng đồng thời cũng vì đã tạo một số ác nghiệp chưa tiêu, mà trong vận mệnh có lưu lại một chút khuyết hãm.”

Nếu đời này có thể tu nhiều thiện nghiệp, vậy thì ác nghiệp có thể được bồi hoàn, thiện nghiệp còn có thể tiếp tục tích lũy, đến kiếp sau sẽ mỹ hảo. Nhưng nếu kiếp này lại tạo ác nghiệp, vậy thì thiện nghiệp sẽ tiêu vong, ác nghiệp càng nhiều, thì kiếp sau khó đoán trước sẽ phải hoàn nghiệp thế nào. Tuy nhiên, tu thiện nghiệp không chỉ là những việc như thắp hương bái Phật, mà là hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính người vợ cả, hòa thuận gia đình, mới là chân chính tu thiện, tích thiện nghiệp.”

Một người thiếp khác lại hỏi: “Trong mệnh có con hay không con, tất là trong mệnh đã định. Lão có thể kiểm tra giúp tôi, nếu trong sổ âm tào không có ghi tôi có con trai, thì tôi sẽ không dám mộng tưởng nữa.”

Bà lão nói với nàng: “Không cần tra hỏi, chỉ cần cô thường xuyên làm chuyện tốt, cho dù trong sách âm tào đã chủ định là không con, cũng sẽ đổi thành có con. Trái lại, nếu thường xuyên làm chuyện bất hảo, trong sách âm tào chủ định là có con, thì cũng sẽ đổi thành không con.”

Tổ phụ tiên ngoại của Kỉ Hiểu Lam, Trương Tuyết Phong, là con rể của Tào thị Vương Khánh Trạch, ông bình sinh nghiêm túc chính trực, ghét nhất tam cô lục bà buôn chuyện từ nhà này sang nhà khác, đặc biệt là những người tự xưng là bà mo có thần thông. Nhưng những lời nói và việc làm của bà lão tẩu vô thường này, đặc biệt là việc bà không bao giờ khuyên các quan bà giàu có bố thí để nịnh nọt Thần Phật, có thể dẫn người ta đi con đường ngay chính, dạy người hướng thiện, thì thường thường được Trương Tuyết Phong công nhận.

Tín Phật rốt cuộc có lợi ích gì?

Ở quê hương của Kỉ Hiểu Lam có một bà lão họ Trương, bà từng là tẩu vô thường. Trước đây khi bà xuống địa phủ, bà đã hỏi một viên lại (chức quan nhỏ) ở địa phủ rằng: “Tín Phật có ích lợi gì?”

Viên lại trả lời: “Đức Phật khuyên người làm điều thiện, người hành thiện tự nhiên sẽ được phước báo. Vì vậy, phước báo phải do tự mình tu dưỡng mà đến, chứ không phải là cầu Phật ban cho. Nếu mục đích cúng dường Đức Phật là cầu Phật ban phước, vậy thì bà hãy nghĩ xem: Ngay cả quan viên liêm khiết ở đời cũng không nhận hối lộ, lẽ nào Phật nhận hối lộ đây?”

Bà lão họ Trương lại hỏi: “Nếu người đã tạo ác nghiệp, thì sám hối có ích gì không?” 

Viên lại đáp: “Muốn sám hối thì tất phải thực tâm sám hối cải tạo, dũng cảm tinh tấn, tu thiện tích đức, nỗ lực bù đắp những sai lầm. Con người hiện tại sám hối Đức Phật chỉ là giống như người phạm tội tự thú để cầu miễn tội, điều này thì có ích lợi gì?”

Kỉ Hiểu Lam cảm thấy những lời này không thể nào là do một bà mo bịa ra, dường như có ai đó đã chỉ điểm cho bà. (Theo “Quyển 10: Như là tôi nghe 4”)

Công chính hay không, lý của âm gian và dương gian là tương đồng

Một đêm tháng bảy năm Ung Chính Ất Mão, có một người đàn ông đậu thuyền ở phía nam Tĩnh Hải. Ánh trăng mờ ảo trên bầu trời, ông đang tản bộ trên bờ biển, nhìn thấy hai người đang ngồi dưới gốc cây liễu nói chuyện. Vì tò mò, ông bước tới, hai người vui vẻ mời ông ngồi cùng. Lắng nghe kỹ cuộc trò chuyện của họ, ông thấy nội dung đều nói về thế giới âm phủ, điều này khiến ông sinh nghi, nghĩ rằng mình đã gặp quỷ, trong tâm sợ hãi đến mức muốn chạy trốn.

Nhưng hai người kia đã ngăn ông lại và nói: “Đừng ngạc nhiên, chúng tôi không phải quỷ. Một người là sứ giả của tẩu vô thường, còn vị kia là người có thể nhìn thấy quỷ.”

Người đàn ông hỏi: “Tại sao bạn có thể nhìn thấy quỷ?” Người có thể nhìn thấy quỷ trả lời: “Tôi sinh ra đã như thế, tôi không biết tại sao.” Người đàn ông kia lại hỏi: “Vậy tại sao bạn lại trở thành sứ giả của tẩu vô thường?” Người tẩu vô thường đáp: “Tôi trong mộng bất chợt được kêu gọi làm công việc này, tôi cũng không biết nguyên nhân tại sao.”

Họ trò chuyện đến tận nửa đêm, chủ yếu là xung quanh chuyện nhân quả báo ứng. Vì thế người đàn ông hỏi: “Khi minh ti đoạn ngục là căn cứ theo đạo lý của Nho gia, hay là đạo lý của Phật gia?” Người nhìn thấy quỷ hồi đáp: “Tôi có thể nhìn thấy quỷ, nhưng không cách nào đối thoại với quỷ, câu hỏi này tôi không thể trả lời.”

Còn người tẩu vô thường thì đáp: “Ông không cần lo lắng như thế, chỉ cần tự hỏi lòng mình. Lương tâm trong sáng thì trong âm luật gọi là thiện; Lương tâm quỷ quyệt thì trong âm luật gọi là ác. Công chính hay không, thì âm phủ và dương thế đều là chung đạo lý, làm sao phải phân ra là Nho hay là Phật?”

Những câu chuyện về tẩu vô thường ở trên chỉ đơn giản giải thích rõ ràng căn nguyên của họa phúc trong đời, không hề giống những ngôn luận của phù thủy vu sư. Có lẽ chính năng lực xuyên việt âm dương đã giúp họ phá giải được cái mê của nhân sinh, càng có khả năng là điểm hóa của sinh mệnh cao tầng đối với nhân loại, mượn miệng của họ để cấp cho người khác và người đời sau.

Theo Epoch Times, Hư
ơng Thảo biên dịch