Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Loạt bài dài kỳ: Phong vân mạn đàm
Một đêm nọ, Lã Bất Vi len lén mang Dị Nhân lên xe ngựa, họ ra khỏi thành lúc nửa đêm. Lần đào thoát này rất bí mật, cẩn trọng…
Lời bạch: Hầu Sinh hiến kế ‘thiết phù cứu Triệu’, dưới sự giúp đỡ của Như Cơ, Tín Lăng Quân đã trộm được binh phù, tiếp đến còn mang theo lực sĩ Chu Hợi đến Nghiệp thành, Tín Lăng Quân đã tiếp quản quân đội của Tấn Bỉ. Vì Tấn Bỉ nghi ngờ quân lệnh của Tín Lăng Quân nên bị hạ sát bởi lực sĩ Chu Hợi. Sau đó Hầu Sinh cũng tự sát, coi như ông đã báo đáp ân tình của Tín Lăng Quân đối với ông. Trước khi Tín Lăng Quân cứu viện nước Triệu, thì đã xảy ra một sự việc siêu việt lạ thường (1).
Khi chúng ta giảng về ‘hoàn bích quy Triệu’ đã từng đề cập qua, vào năm 279 TCN, khi đó Tần Chiêu Tương Vương và Triệu Huệ Văn Vương đang ở hội Miễn Trì, thì Tần Chiêu Tương Vương đã đưa cháu của ông là Dị Nhân đến nước Triệu làm con tin. Đợi đến lúc nổ ra trận chiến Trường Bình, Dị Nhân đã ở nước Triệu làm con tin 19 năm rồi, cho nên thời trẻ của Dị Nhân rất không như ý.
Vì sao lại để Dị Nhân làm con tin? Bởi vì thái tử của Tần Chiêu Tương Vương là An Quốc Quân, là người tương lai sẽ kế vị. An Quốc Quân có rất nhiều vợ, trong đó có một người tên là Hạ Cơ, bà không được sủng ái cho lắm. Dị Nhân chính là con trai của Hạ Cơ, cho nên mới để Dị Nhân đến nước Triệu làm con tin.
Lại nói, lúc này có một thương nhân lớn đến Hàm Đan tên là Lã Bất Vi, Lã Bất Vi là người Dương Địch (2), Dương Địch nay thuộc huyện Vũ tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Tại Hàm Đan ông đã thấy vương tôn (cháu vua) của nước Tần là Dị Nhân. Ông đã nói một câu như thế này: “Đầu cơ kiếm lợi” (Kỳ hoá khả cư – 奇貨可居).
Thành ngữ “đầu cơ kiếm lợi” cũng chính từ đây mà ra. Ý nghĩa là vụ mua bán tốt, mua một món hàng tốt, tích trữ lại, sau đó bán với giá cao hơn.
Lã Bất Vi trở về hỏi phụ thân: “Trồng trọt có thể đạt được lợi nhuận gấp mấy lần?”. Phụ thân ông nói: “10 lần”. Sau đó Lã Bất Vi lại hỏi: “Vậy bán hàng châu ngọc thu lợi được mấy lần?”. Phụ thân ông đáp: “100 lần”. Lã Bất Vi tiếp tục hỏi: “Nếu phò tá một người mà người đó làm vua, nắm giữ sơn hà, thì lợi được mấy lần?”.
Phụ thân ông đáp: “Cái lợi đó là gấp hàng ngàn, hàng vạn lần, không thể tính đếm”. Lã Bất Vi nói: “Được, vậy thì con sẽ làm ăn mối này, con sẽ đem hết toàn bộ gia sản để đầu tư vào mối làm ăn này”. Thế là ông đã tiêu rất nhiều rất nhiều tiền để kết giao với vương tôn nước Tần là Dị Nhân.
Dị Nhân thời còn ở nước Triệu, hàng ngày sống một cuộc sống không mấy dễ chịu. Vốn dĩ phụ thân của ông không yêu mến ông, cho nên mới để ông làm con tin, vì thế chi phí sinh hoạt của ông rất hữu hạn, ra ngoài không có xe theo sau, chỉ có một cỗ xe nhỏ tự mình đánh, trong tay không dư dả mấy.
Lã Bất Vi khi thấy Dị Nhân như vậy, ông nói với Dị Nhân: “Tôi có thể làm cho địa vị của ông trở nên vô cùng lớn”. Khi đó Dị Nhân chỉ cười rồi nói: “Ông bạn à, hãy để lại chút sức lực để làm rạng danh tiền đồ của ông đi”. Lã Bất Vi nói: “Địa vị của tôi đương nhiên sẽ trở nên rất lớn, nhưng tôi muốn đợi địa vị của ông lớn lên trước đã, thì tôi mới có thể làm vậy được”. Dị Nhân lập tức hiểu được điều Lã Bất Vi muốn làm là gì.
Lã Bất Vi phân tích cho Dị Nhân rằng: “Hiện tại Tần vương đã rất già rồi. Ông ấy có thể chết bất cứ lúc nào, sau đó An Quốc Quân nhất định là người kế vị. Nếu ông muốn kế vị An Quốc Quân để làm Tần vương thì không có chút ưu thế nào.
Thứ nhất, mẫu thân của ông không được sủng ái. Thứ hai, thời Đông Chu liệt quốc, thông thường con trai trưởng của vợ cả sẽ làm người kế vị. Còn ông, ông không phải là con trai trưởng, cũng không phải là con trai út, trong hàng ngũ các anh em của ông thì ông nằm ở giữa.
Hơn nữa, ông lại ở rất xa An Quốc Quân – phụ thân của ông. An Quốc Quân cả ngày không thấy mặt ông, không có cảm tình đối với ông. Sau khi An Quốc Quân mất, làm sao có thể để ông kế vị, đây là điều không thể. Nhưng tôi có cách để ông có thể làm quốc vương”.
Dị Nhân hỏi: “Đó là cách gì?”. Lã Bất Vi đáp: “Bởi vì người mà phụ thân ông sủng ái nhất chính là Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân lại không có con trai, nếu ông có thể để Hoa Dương phu nhân nhận ông làm con trai, hy vọng kế vị của ông sẽ vô cùng lớn trong tương lai”.
Dị Nhân nói: “Tôi không có biện pháp nào, bởi vì giờ tôi về nước Tần cũng về không được, lại không có tiền nữa. Làm thế nào đây?”.
Lã Bất Vi nói: “Tôi sẽ giúp ông việc này”. Thế là Lã Bất Vi lấy 500 cân vàng kim đến nước Tần (vàng kim khi đó là đúc bằng đồng). Lã Bất Vi là người dân bình thường, ông làm sao có thể vào cung, hơn nữa lại gặp người thiếp mà thái tử sủng ái nhất?
Đầu tiên ông đến tìm chị gái của Hoa Dương phu nhân nói: “Tôi nghe nói người mà tôn sùng nhan sắc, thì khi nhan sắc suy tàn, tình yêu cũng nhạt mất. Em gái bà rất đẹp, nhờ đó mà được sủng ái. Tương lai đến một ngày, khi nhan sắc em gái bà không còn, thì sự sủng ái của thái tử dành cho em gái bà khẳng định sẽ không còn như trước. Do đó đến lúc nhan sắc cô ta nhạt phai, cô ấy nói với thái tử điều gì thì điều ấy cũng đã muộn. Cho nên nhân lúc cô ấy được sủng ái nhất, cô ấy nói gì thái tử nghe nấy, lấy con trai cô ấy lập thành quốc vương. Tương lai khi thái tử mất, con trai cô ấy sẽ là người kế vị ngai vàng, vị trí quyền quý của cô ấy có thể đảm bảo tiếp tục”.
Vấn đề là Hoa Dương phu nhân không có con trai, Lã Bất Vi bèn giới thiệu Dị Nhân cho Hoa Dương phu nhân. Ông nói với chị gái của Hoa Dương phu nhân: “Con người Dị Nhân này, hiền lương hiếu hạnh không ai bằng. Mỗi năm cứ đến ngày Đông Chí cho đến tận đầu năm sau, Dị Nhân đều đốt một lò hương hướng về phía tây, chính là hướng về nước Tần mà lễ bái. Sau đó cung chúc Tần vương, cung chúc thái tử, cung chúc Hoa Dương phu nhân thân thể khoẻ mạnh. Cho nên Dị Nhân có danh tiếng rất tốt. Nếu em gái bà có thể nhận Dị Nhân làm con trai, đây là biện pháp giữ gìn phú quý”. Chị gái Hoa Dương phu nhân nói những lời này đến người em gái, kết quả Hoa Dương phu nhân chấp thuận nhận Dị Nhân làm con trai.
Có một hôm lúc đêm khuya, Hoa Dương phu nhân nói với An Quốc Quân: “Ngài xem thiếp không có con trai, thiếp hy vọng có thể nhận một đứa làm con trai, tương lai nó có thể kế vị, như thế phú quý của mẹ con thiếp mới được lâu dài”. Bởi vì An Quốc Quân rất yêu mến Hoa Dương phu nhân, thế là khi đó ông lấy một khối ngọc rồi khắc lên đó bốn chữ: “Đích tự Dị Nhân” (嫡嗣異人), Đích 嫡 nghĩa là vợ cả, Tự 嗣 nghĩa là kế thừa kế vị. “Đích tự Dị Nhân” có nghĩa là coi Dị Nhân như con trai của người vợ cả, chính là người kế vị sau này. Lã Bất Vi làm việc này xong, ông trở về nước Triệu.
Lời bạch: Lã Bất Vi thông qua du thuyết, đã biến Dị Nhân từ một con tin trở thành người kế vị, sau đó ông còn đem tuyệt sắc mỹ nữ là Triệu Cơ gả cho Dị Nhân. Tháng Giêng năm Tần Chiêu Tương Vương thứ 48, tức năm 259 TCN, Triệu Cơ sinh hạ được một bé trai. Đứa bé này, 38 năm sau chính là Tần Thuỷ Hoàng thống nhất thiên hạ. Khi trận chiến Trường Bình vừa mới kết thúc, khoảng năm 257 TCN, đại quân nước Tần lần lượt tấn công nước Triệu, bao vây đô thành Hàm Đan. Vậy thì làm thế nào Dị Nhân có thể chạy thoát khỏi nước Triệu?
Năm Tần Chiêu Tương Vương thứ 50, tức năm 257 TCN, Vương Hột lại một lần nữa bao vây Hàm Đan. Lần này hoàn cảnh của Dị Nhân tương đối nguy hiểm. Ông bèn thương lượng với Lã Bất Vi làm thế nào để có thể rời khỏi nước Triệu? Lã Bất Vi đem hết tiền của mình ra, tổng cộng có 600 cân vàng kim. Ông hối lộ Đại phu Công Tôn Càn – người canh giữ Dị Nhân, hối lộ vị tướng trấn thủ cổng phía nam, nói rằng: “Hiện nay Tần – Triệu đang xảy ra chiến tranh, Hàm Đan rất nguy hiểm, ta hy vọng các ông mở cho ta con đường thoát”. Tướng quân thủ thành và binh sĩ đã đồng ý.
Một đêm nọ, Lã Bất Vi len lén mang Dị Nhân lên xe ngựa, họ ra khỏi thành lúc nửa đêm. Lần đào thoát này rất bí mật, rất cẩn trọng. Vì để không dẫn động sự hoài nghi của binh sĩ, vợ và con không cùng đi với Dị Nhân, họ ẩn trốn ở nhà mẹ của Triệu Cơ.
Gia thế của Triệu Cơ là một gia đình giàu có ở Hàm Đan, có rất nhiều tiền. Cho nên khi Tần Thuỷ Hoàng còn nhỏ, trên thực tế là ông ta lớn lên ở nước Triệu. Ông sinh năm 259 TCN nhưng mãi đến năm 251 TCN mới về nước Tần. Thời gian ở nước Triệu, 8 năm ông phải sống trong sợ hãi, giống cuộc sống của con tin hoặc tù nhân.
Thời đó, cùng làm con tin ở nước Triệu còn có một người nữa, chính là Thái tử Đan – người sau này ra lệnh cho Kinh Kha đi hành thích Tần vương. Thái tử Đan lúc nhỏ cùng với Tần Thuỷ Hoàng chơi với nhau rất vui vẻ.
Sau khi Lã Bất Vi đem Dị Nhân về nước Tần, ông để Dị Nhân đi bái kiến Hoa Dương phu nhân ngay. Vì Hoa Dương phu nhân là người nước Sở, cho nên Lã Bất Vi để Dị Nhân mang y phục nước Sở tới bái kiến Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân khi thấy người con trai đột nhiên mặc trang phục nước Sở, bà mới hỏi Dị Nhân tại sao lại mang y phục Sở quốc?
Dị Nhân đáp: “Con làm vậy để tưởng nhớ mẫu thân. Mẫu thân là người nước Sở nên con mặc y phục nước Sở”. Điều này làm Hoa Dương phu nhân vô cùng cảm động, thế là bà đặt tên cho Dị Nhân là Tử Sở – chính là Tần Trang Tương Vương sau này. Không lâu sau khi Lã Bất Vi mang Tử Sở về Tần, thì xảy ra sự việc Tín Lăng Quân ‘thiết phù cứu Triệu’.
Ở tập trước chúng ta có đề cập đến Trịnh An Bình, ông đã đầu hàng quân Triệu. Trịnh An Bình người từng cứu Phạm Thư năm xưa. Ở nước Tần có một quy định, bạn đã tiến cử người này, nếu người này phạm tội thì làm thế nào để trừng phạt người ấy? Chính là người tiến cử phải nhận hình phạt tương tự. Mà ở nước Tần, người nào đầu hàng quân địch, tội danh tương đương với giết cả họ, cả nhà đều bị tịch thu tài sản và bị chém đầu.
Trịnh An Bình làm tướng quân là do Phạm Thư tiến cử, do đó Phạm Thư ở nhà đã ngồi lên chiếu cỏ, chờ Tần Chiêu Tương Vương đến chém đầu ông ta. Kết quả Tần Chiêu Tương Vương không xử lý Phạm Thư, ông nói với đại thần bên dưới: “Các người sau này không ai được đề cử những người như Trịnh An Bình. Năm đó chỉ định Trịnh An Bình làm tướng là chủ ý của ta, không liên quan đến Ứng Hầu Phạm Thư”.
Tần Chiêu Tương Vương không xử lý Phạm Thư bởi vì mối quan hệ giữa ông với Phạm Thư rất tốt. Năm đó còn có một người từng giúp đỡ Phạm Thư là Vương Kê. Vương Kê thông đồng qua lại với chư hầu, chiếu theo pháp luật nước Tần là nên bị chém đầu. Vương Kê cũng do Phạm Thư tiến cử, cho nên Phạm Thư lại mắc thêm một tội này nữa. Kết quả Tần Chiêu Tương Vương cũng không trừng phạt ông ta, nhưng sự sủng ái Phạm Thư đã không còn như thuở ban đầu.
Có một lần Tần Chiêu Tương Vương ở trong cung điện, ông một mình thở dài ngao ngán. Phạm Thư hỏi: “Thần nghe nói nếu quốc vương có ưu lo, thì đại thần đã phạm tử tội, liệu có thể để thần gánh một phần nỗi lo của đại vương không?”.
Tần Chiêu Tương Vương nói: “Hiện tại Vũ An Quân Bạch Khởi đã tự sát, Vương Kê làm phản, Trịnh An Bình đầu hàng, bên ngoài đất nước còn có địch, mà trong nước không có được một tướng quân giỏi cầm binh đánh trận, cho nên ta vô cùng lo âu”.
Tần vương nói từng câu từng câu đều chạm đến tâm can của Phạm Thư… Khi đó để An Quốc Quân Bạch Khởi tự sát là chủ ý của Phạm Thư, Vương Kê và Trịnh An Bình đều do Phạm Thư tiến cử. Phạm Thư khi đó toát mồ hôi lạnh, ông không nói câu nào, sau đó cáo từ rời khỏi hoàng cung.
Lúc này có một người nước Yên là Thái Trạch đã đến nước Tần. Mục đích của ông rất đơn giản, chính là thay Phạm Thư để làm Thừa tướng nước Tần. Rốt cuộc tài năng của người này đến đâu và ông ta liệu có đạt được mục đích đơn giản của mình? Kính mời quý độc giả đón xem phần tiếp theo.
Chú thích:
(1) Nguyên gốc là Phỉ di sở tư – 匪夷所思: không phải việc bình thường, việc siêu thường vượt qua suy nghĩ người thường.
(2) Cũng có bản dịch là Dương Trạch.
Theo Epoch Times
Mạn Vũ biên dịch