Đại Kỷ Nguyên

Phong vị phong tục ngày Tết cổ truyền (P.1)

“Bọn trẻ có thể vùi một vài củ khoai, củ sắn vào bếp củi để lúc đêm khuya trông nồi bánh chưng sẽ có một thứ đồ ăn vặt thơm nức, bỏng rẫy cho vui câu chuyện bên nồi bánh và cảm nhận một không khí náo nức khi Xuân về…”

Phỏng đoán về nguồn gốc của ngày Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Trước hết, Tết Nguyên Đán là một kỳ lễ đón chào năm mới. Với ý nghĩa ấy thì nó không phải là phong tục của riêng người Việt. Các dân tộc, các nước đều có phong tục chào đón năm mới tương tự, nhưng được thực hiện vào những thời điểm khác nhau, theo những lịch khác nhau.

Trong ba chữ Tết Nguyên Đán thì:

Vậy Tết Nguyên Đán là ‘buổi sớm đầu tiên trong năm’. Gọi tắt là Tết.

Theo phỏng đoán của một số học giả, Tết có lẽ bắt nguồn từ truyền thống làm nông nghiệp của các dân tộc phía Nam sông Trường Giang thuộc Trung Hoa trở xuống đến Bắc và Trung Việt (tộc Bách Việt). Do hoạt động làm nông nghiệp của cư dân vùng này phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu nên có chữ ‘Tiết’, hay ‘Tết’ là vì vậy. Khí hậu vùng này nói chung có 4 mùa 8 tiết. Một năm chia thành 24 tiết khí theo nông lịch. 4 mùa là Xuân, Hạ, Thu, Đông. 8 tiết là Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí, Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông.

Tết Nguyên Đán là bắt đầu của tháng đầu tiên của năm âm lịch, gọi là tháng giêng, tháng này bao giờ cũng là tháng Dần. Đấy là lúc chuôi sao Bắc Đẩu chỉ về phương Dần.

Tết Nguyên Đán ở ta có từ bao giờ? Đây là một câu hỏi chưa thể trả lời chính xác, chỉ có thể phỏng đoán. Theo Từ điển Từ Hải thì năm khởi điểm của lịch Trung Hoa là vào năm 3000 trước Công Nguyên. Nhưng mãi đến đời nhà Hạ (2205 – 1808 trước Công Nguyên) thì họ mới lấy tháng Giêng làm tháng Dần. Có lẽ đó là thời điểm bắt đầu có Tết Nguyên Đán của Trung Hoa chăng? Còn ở ta thì Tết Nguyên Đán có từ bao giờ? Phải chăng là từ khi những thái thú người Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên mang vào từ thế kỷ thứ I sau Công Nguyên? Thật khó để trả lời câu hỏi này.

Tết Nguyên Đán được cho là bắt nguồn từ Trung Hoa xưa. (Ảnh minh họa: ifuun.com)

Những việc sửa soạn cho cái Tết theo truyền thống dân tộc

Tết Nguyên Đán có thể nói là kỳ lễ quan trọng nhất trong năm theo truyền thống người Việt. Người Việt Nam ta từ xưa có nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp sản xuất nhỏ, gọi là tiểu nông. Cư dân vùng Bắc và Trung Bộ sản xuất nông nghiệp cũng tương đối khó khăn vì đất đai và khí hậu không thực sự thuận lợi. Vì vậy, người Việt nghèo, quanh năm ăn uống thiếu thốn, chỉ mong đến Tết Nguyên Đán sẽ được no đủ hơn. Dân gian có câu:

“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”.

Hay:

“No ba ngày Tết, đói ba tháng hè”.

Ngày Tết là ngày đầu năm, là một khởi đầu mới chất chứa bao niềm hy vọng cho một năm mới sung túc và thịnh vượng. Cho nên, ngày Tết cần phải được no đủ thì cả năm mới no đủ. Ai nghèo đến đâu cũng phải cố sắm sửa lấy cái Tết cho tươm tất, có thịt có bánh, đừng để đói. Cũng bởi thế, ông thầy bói mù mới được dịp phán như Thánh sống những chuyện đương nhiên như là:

“Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi Tết, thịt treo trong nhà”.

(Tất nhiên, đó chỉ chuyện trào phúng, không nên lợi dụng để đánh đồng, hạ thấp khả năng của giới bói toán có thực tài.)

Đó cũng chính là áp lực cho người sống vì có khi phải vay mượn để có một cái Tết tươm tất. Họ tưởng tượng rằng người chết sẽ mừng vì được cúng kiếng đầy đủ, nhưng còn người sống thì sao? Lo muốn chết vì Tết sắp đến:

“Tết đến sau lưng,

Ông vải thì mừng con cháu thì lo”.

Thế nên, việc chuẩn bị cho ngày Tết được thực hiện từ trong năm và từ những điều tưởng như vụn vặt nhất. Kiếm được thanh củi chắc, người ta cũng để dành để “nấu bánh chưng Tết”, hay kiếm được cái mo cau khô rụng, cũng dành cất đi để tước mỏng quấn lại và Tết sẽ có cái để gói giò. Người dân nuôi con lợn con gà cũng bảo để dành đến Tết. Có cân gạo nếp ngon cũng bảo để dành đến Tết gói bánh chưng.

Bánh Trưng là hương vị không thể thiếu trong những ngày tết. (Ảnh: vtc)

Đấy là đồ ăn. Còn thú chơi thì sao? Chơi hoa chẳng hạn. Muốn có hoa đào chơi Tết thì cả năm người chơi phải chăm sóc, cắt cắt uốn uốn cho cây. Lại phải:

“Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm…”

Trông ngóng thời tiết nắng mưa nóng lạnh để căn thời điểm tuốt lá cho đào (thường là tháng 10 âm lịch) sao cho đào ra hoa không sớm không muộn mà đúng vào dịp Tết. Ngày nay, người ta còn dùng nhiều biện pháp kỹ thuật hơn nữa. Thật là kỳ công.

Không chỉ chăm đào là kỳ công, mà chơi các thứ hoa Tết khác như mai, hải đường, trà, quất… cũng kỳ công không kém. Nếu muốn chơi hoa thủy tiên thì phải lo gọt củ từ đầu tháng Chạp mới có hoa nở đúng khi Tết đến Xuân về.

Với người buôn bán, Tết là dịp tốt để đẩy mạnh doanh số. Cho nên, họ phải chuẩn bị từ trong năm cho việc gần Tết sẽ bán hàng gì, số lượng bao nhiêu? Có khi phải chuẩn bị đặt mua hàng từ giữa năm.

Từ khoảng giữa tháng Chạp, chợ búa đã có vẻ nhộn nhịp hơn thường ngày. Rồi mỗi ngày chợ một tưng bừng, tấp nập hơn, có nhiều hàng hóa và màu sắc hơn. Người ta nói “đông như chợ Tết”, tưởng cũng đúng. Đi chợ Tết là hòa mình vào một không khí vừa lâng lâng rộn ràng, vừa ngây ngất trong tiết trời se lạnh. Ta nghe thấy tiếng người rao bán râm ran, tiếng mặc cả ồn ào, tiếng gà qué kêu quang quác, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng trẻ cười giòn tan… và người ta thấy mình lọt vào cả một rừng hoa Tết đủ loại đủ màu nhưng vẫn không che lấp được vẻ mộc mạc mà tươi tắn của những bức tranh dân gian, tranh Đông Hồ, tranh thư pháp chữ Nho… như một nhà thơ đã viết:

“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…”

Của xứ Kinh Bắc văn hiến.

Đi chợ Tết, ngoài việc mua đồ ăn, quần áo mới, cây, hoa, tranh… còn cần mua pháo Tết. Những băng pháo màu hồng kích cỡ từ nhỏ đến to: nhỏ thì như pháo tép – bé như que đũa, to hơn là pháo đùng, cỡ đại là pháo cối. Làng có nghề pháo nổi tiếng nhất cả nước từ thời nhà Nguyễn là làng Bình Đà, thuộc huyện Thanh Oai, Hà Tây. Nhưng kể từ khi có chỉ thị cấm đốt pháo, đã từ lâu Tết không còn nghe tiếng nổ ùng oàng vui tai của những tràng pháo nữa.

Một phiên chợ tết tại Hà Nội ở thập niên 90. (Ảnh: nghenhinvietnam)

Nhưng còn gì nữa không?

Vẫn còn nhiều việc phải làm. Một trong những việc đó là biếu Tết.

Hầu như ai cũng cần đi biếu Tết.

Con cháu đã ra ở riêng phải lo biếu Tết cha mẹ, ông bà. Nếu bề trên kinh tế khó khăn thì con cháu phải lo sắm sửa đầy đủ đồ ăn thức uống và các thứ vật dụng cho họ. Còn bề trên sung túc thì ít nhất con cháu cũng phải chuẩn bị cành đào cành quất, chậu mai, chậu cúc, củ thủy tiên, băng pháo hoặc của ngon vật lạ… để biếu tặng họ.

Có một phong tục khác gọi là đi “sêu Tết”. Không phải là phát âm của Anh ngữ (sales Tết) mà là tục lệ trong đó người con rể tặng quà nhà vợ hay bố mẹ vợ trong dịp Tết. Xưa thì tục ấy là để dành cho người con rể tương lai khi chưa cưới mà mới có đính ước. Nay thì không phân biệt điều ấy. Việc người con rể biếu quà Tết cho bố mẹ vợ không phải là bắt buộc và cũng không cụ thể như việc thách cưới của nhà gái với nhà trai, nhưng đó là một nét đẹp văn hóa với ý nghĩa thắt chặt mối tình cảm cha vợ, mẹ vợ với chàng rể. Hành động đó cũng hàm chứa sự biết ơn của người con rể với những bậc đã có công sinh thành và nuôi dạy người vợ hiền của mình. Dân gian có câu: “Con gái là con người ta” để nói về việc trước sau cô gái cũng về nhà chồng và coi việc nhà chồng như việc nhà mình. Khi con gái “mình” đã thành con người ta, thì “người ta” hẳn cũng nên có sự trân quý và biết ơn với “mình”. Người Việt ta là vậy.

Học trò cũng cần đi biếu Tết thầy mình. Đó cũng là nét đẹp của sự biết ơn, dù không ai quy định cụ thể như khi đội mâm xôi con gà đến xin bái sư.

Bệnh nhân cũng cần biếu Tết thầy thuốc đã chữa cho mình lành bệnh.

Ai đã từng gia ơn với mình thì đó cũng là đối tượng cần phải biếu Tết.

Bạn hữu bà con cũng biếu Tết lẫn nhau vì “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tết là dịp để bày tỏ tình cảm và gắn kết quan hệ.

Cũng có một dạng biếu Tết khác là dân biếu Tết quan, con nợ biếu Tết chủ nợ, cấp dưới biếu Tết cấp trên. Có lẽ lúc ban đầu thì nó cũng xuất phát từ ân nghĩa tình cảm; nhưng dần dần thì ý nghĩa của việc này không còn được như thuở ban đầu nữa.

Ngày tết mọi người thể hiện tình cảm với nhau bằng những món quà. (Ảnh minh họa: quavang)

Vẫn chưa hết những việc cần chuẩn bị. Việc đối ngoại đã xong, giờ là lúc quay về nhà mình để sửa soạn trang hoàng.

Trong nhà

Khu vực cần lau dọn sạch sẽ đầu tiên chính là bàn thờ. Những đồ thờ được lau chùi sạch sẽ, đồ đồng được đánh sáng choang.

Ở quê, vì đun rơm củi nên người ta thay mấy ông đầu rau mới bằng đất nặn. Ông đầu rau chính là ba cái chân kiềng bằng đất để đun bếp.

Cây, hoa cảnh sẽ được chuyển vào nhà hoặc bày trong khu vực sân nhà. Tranh sẽ được treo ở những nơi trang trọng. Có nhiều nhà dán câu đối đỏ ở cửa nhà hay cột nhà.

Những ngày 28, 29, 30 tháng Chạp là bận rộn nhất. Trong những ngày ấy, nhà cửa phải được dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng đẹp đẽ. Những nhà gói bánh chưng thì phải chuẩn bị lá dong, lạt, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, hạt tiêu, mắm muối… từ trước. Đến ngày ấy chỉ gói bánh và luộc bánh thôi.

Thường thì để có thịt lợn gói bánh chưng, gói giò thủ và các đồ ăn thức uống khác, thì trước đó phải giết mổ lợn. Những nhà không khá giả thì mấy nhà chung nhau mổ một con lợn.

Khi nồi bánh chưng được đun sôi sùng sục bằng củi để dành từ trong năm và vỏ trấu dành lại từ vụ mùa là lúc vui và ấm cúng nhất của gia đình. Lúc này, người lớn tuổi đi ra đi vào, ngắm hoa, uống trà, chuyện trò, gật gù hài lòng và ngắm lũ trẻ tíu tít chạy ra chạy vào. Bọn trẻ có thể vùi một vài củ khoai, củ sắn vào bếp củi để lúc đêm khuya trông nồi bánh chưng sẽ có một thứ đồ ăn vặt thơm nức, bỏng rẫy cho vui câu chuyện bên nồi bánh và cảm nhận một không khí náo nức khi Xuân về.

Có thể nhân cái bếp còn lửa sau khi bắc nồi bánh ra, người ta đặt một nồi nước to với lá hương nhu, sả, quả mùi… để tắm tất niên cho thơm tho sạch sẽ.

Khi nồi bánh chưng được đun sôi sùng sục cũng là lúc vui và ấm cúng nhất của gia đình. (Ảnh: Hoàng Anh Hiền)

Ngoài sân và cổng ngõ

Để trừ tà cho năm mới có nhiều cách. Hoặc người ta buộc cành đa, lá dứa ngoài cửa ngõ. Có người lại rắc vôi bột trước sân, ngoài cổng theo hình bàn cờ, cái cung cái nỏ với hình mũi tên bắn ra. Đấy là với những nhà không trồng cây nêu.

Việc trồng cây nêu để trừ tà thì muộn nhất phải làm xong chiều 30 Tết. Học giả Nguyễn Văn Huyên miêu tả phong tục này vào đầu thế kỷ trước như sau:

“Đấy là một cây tre dài năm sáu mét, được tước hết các cành, nhưng có để lại ở ngọn những cụm lá hoặc buộc vào đó một túm lông gà trống, một mớ lá đa hay lá cây. Gần đỉnh treo một cái vòng đan bằng tre, buộc những con cá nhỏ, những chiếc chuông con và khánh bằng đất sét nung phát ra một âm thanh nhẹ và êm khi gió thổi. Dưới cái vòng này có buộc một cái mũ thần, những thoi vàng bằng giấy, những miếng lá trầu, lá dứa hoặc cành xương rồng có gai. Ở đỉnh còn treo một cái đèn thắp ban đêm. Cây nêu được làm như vậy để chỉ đúng đường cho tổ tiên trở về ăn Tết với gia đình, cùng những người đang sống. Bằng ánh sáng và bằng gai cuả các cành cây mà nó mang lại, bằng âm thanh mà các vật đất sét phát ra lúc gió thổi, cây nêu làm sợ hãi ma quỷ, chúng tưởng mình đang đứng trước một vị Thần hay một Đức Phật. Để chống lại những hồn lang thang đáng sợ đó, người ta còn buộc vào cây nêu một tấm phên nhỏ gồm bốn nan dọc đan vào năm nan ngang, là thứ bùa nổi tiếng của các thầy phù thủy” .

Những việc quan trọng không nên để sót trước giao thừa

Một trong các việc đó là: trả nợ. Vay ai cái gì hay mượn ai cái gì thì nên trả trước giao thừa, kẻo để đến năm mới người ta sang đòi thì gọi là “giông” cả năm.

Và từ trưa 30 Tết, người ta phải sửa soạn mâm cúng tất niên, đồng thời đón rước tổ tiên. Lúc này đèn hương thắp suốt ba ngày Tết.

Như vậy, coi như là đã xong những việc cần chuẩn bị trước Tết. Và đây là lúc vui nhất của gia đình người Việt theo văn hóa truyền thống. Tết Nguyên Đán là cái Tết lớn nhất, cái Tết đoàn viên của người Việt. Ai đi đâu xa mà không về kịp để sum họp với gia đình trong dịp Tết thì lòng ngậm ngùi, hiu quạnh, cảm thấy mình cô đơn khổ sở lắm.

Từ lễ cúng Giao Thừa hay lễ Trừ Tịch, mới thực sự bước vào thời gian chính của 3 ngày Tết. Lúc đó, người Việt có phong tục gì, xin quý độc giả đón xem ở kỳ sau.

Người Năm Cũ

(Bài viết có tham khảo cuốn “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu và cuốn “Phong tục Việt Nam” của Phan Kế Bính)

Exit mobile version