Có câu: “Lời do tâm sinh”, một người có tâm tính như thế nào thì sẽ nói ra những lời như thế. Người có lòng bao dung lời nói ra sẽ nhẹ nhàng hòa ái. Người khiêm nhường lời nói ra sẽ chừng mực nhã nhặn. Những lời nói của cổ nhân vốn có nội hàm thực sự sâu sắc, có thể coi là vốn quý nhân sinh được đúc kết từ ngàn năm, chính là hành trang cho chúng ta trên bước đường nhân sinh đầy khó khăn, trắc trở.
1. Trầm mặc thị kim (Im lặng là vàng)
Trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử viết: “Ngôn quả vưu, hành quả hối, lộc tại kì trung hĩ“, ý nói rằng, nói năng ít sai trái, làm những việc ít phải hối hận thì bổng lộc tự nhiên nằm trong đó rồi. “Trầm mặc thị kim” (im lặng là vàng) kỳ thực xuất phát từ lời nói của Khổng Tử.
Trong xã hội hiện đại náo nhiệt ngày nay, chúng ta có quá nhiều lúc quen phát ra tiếng ồn ào mà quên mất sức mạnh của “im lặng”. Ta đã nói quá nhiều mà mất đi sự trầm tĩnh.
Cổ nhân có câu, khi một người “thao thao bất tuyệt” thì suy nghĩ của người ấy đã bị chính cái miệng nhiều lời mưu sát một nửa rồi. Bảo trì sự im lặng, trầm tĩnh nhiều khi chính là sách lược, là cách xử sự thông minh nhất trong đối nhân xử thế và giải quyết sự việc.
Nhà văn, tác giả tiểu thuyết Nhà Giả Kim, Paulo Coelho, nói: “Những thứ vào miệng không độc, những thứ từ miệng tuôn ra mới độc”. Tại sao lại như thế? Chúng ta ăn cơm lành, canh ngọt, ăn quả chín, rau xanh, tại sao những lời chúng ta nói lại có thể như thuốc độc?
Chúng ta đã mất nhiều thời gian để học nói, phải chăng cũng đã đến lúc ta nên học cách im lặng? Ta lặng im để không làm tổn thương người khác, không gây nghi kỵ lẫn nhau. Lặng im để không phàn nàn, không phán xét, không chì chiết. Lặng im để không nói ra những lời giả dối, sáo rỗng, để không mang những tiếng xấu gieo rắc trong đời. Cuộc đời đã là bể khổ với đủ rối ren rồi, chúng ta hãy học im lặng, đừng bới móc rác rưởi nữa. Như thế mới có thể ngắm được hoa nở xinh tươi.
2. Thượng thiện nhược thủy (Thiện cũng giống như dòng nước)
Trong chương tám, Đạo Đức Kinh, Lão Tử giảng: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ác, cố cơ ư đạo”. Tạm hiểu là: Người thiện ví như dòng nước, nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành, chịu ở nơi mọi người ghét, nên gần với Đạo.
Ý nói rằng, cảnh giới tối cao của thiện cũng giống như phẩm chất của nước, tưới mát cho vạn vật mà không tranh không giành, ở những nơi mà mọi người không để ý tới, vì thế mà tiếp cận gần với Đạo.
Đặc tính của nước là “chí thiện chí nhu”, vô cùng lương thiện vô cùng ôn nhu, lại “miên miên mật mật”, liên tục không ngừng, khi thì nhỏ nhẹ lặng lẽ, lúc lại cuộn trào mãnh liệt, không tranh với người mà dung nạp vạn vật. Đạo của cuộc sống chính là như vậy.
3. Đại trí nhược ngu (Tài trí giả ngu dốt)
Trung Quốc cổ đại có câu thành ngữ “đại trí nhược ngu”. Câu thành ngữ này xuất phát từ “Hạ Âu Dương thiếu suất trí sĩ khải” của Tô Đông Pha đời Tống: “Đại dũng nhược khiếp, đại trí nhược ngu” (Kẻ dũng mãnh giả như khiếp sợ, kẻ tài trí giả như ngu dốt).
Ý nói kẻ có tài trí rất cao nhưng không để lộ tài năng, biểu hiện ra giống như ngu dốt. Ý tứ tương tự còn có câu: “Đại xảo nhược chuyết” (Khéo léo mà giả như vụng về).
4. Đạm bạc minh trí (Đạm bạc thì chí sáng suốt)
Câu này nguyên là xuất phát từ “Hoài Nam tử: Chủ thuật huấn” của Hoài Nam vương Lưu An vào những năm đầu thời Tây Hán. Trong “Giới tử thư” của Gia Cát Lượng có đoạn: “Phi đạm bạc vô dĩ minh chí, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn”, tức là không đạm bạc thì không thể sáng cái chí, không yên tĩnh thì không thể nghĩ được xa.
Lão Tử cũng giảng: “Điềm đạm vi thượng, thắng nhi bất mỹ”, ý nói điềm đạm là thượng sỹ, thắng cũng không đắc ý. Không “thanh tâm quả dục” (tâm thanh tĩnh, ít ham muốn) thì không thể có chí hướng rõ ràng kiên định, không an định thì không thể thực hiện được lý tưởng, cũng không chịu khó chịu khổ để học tập được.
5. Tích thủy xuyên thạch (Nước chảy đá mòn)
Câu này có nguồn gốc từ “Hạc lâm ngọc lộ” của La Đại Kinh thời Tống: “Nhất nhật nhất tiễn, thiên nhật thiên tiễn, thằng cứ mộc đoạn, thủy tích thạch xuyên”. Tạm dịch: Một ngày một đồng, nghìn ngày nghìn đồng, thừng cưa gỗ đứt, nước chảy đá mòn.
Trương Quai Nhai là người thời Tống, làm huyện lệnh huyện Sùng Dương. Lúc bấy giờ, đời sống trong huyện vô cùng bất ổn, trộm cướp hoành hành, ngay cả kho tiền của huyện cũng thường xuyên bị mất trộm. Trương Quai Nhai quyết tâm phải xử lý việc này đến nơi đến chốn.
Một ngày nọ, Trương Quai Nhai trông thấy một tiểu lại lật đật đi ra từ kho tiền, trên chiếc khăn đội đầu còn giấu một đồng tiền. Ngay lập tức ông liền hạ lệnh tra khảo. Tiểu lại không phục, nói: “Một đồng tiền thì có là gì đâu? Ông có thể đánh tôi nhưng không thể giết tôi!”. Trương Quai Nhai giận dữ đáp: “Một ngày một đồng, nghìn ngày nghìn đồng, thừng cưa gỗ đứt, nước chảy đá mòn. Phải chém!”.
Từ đó về sau, “tích thủy xuyên thạch” (nước chảy đá mòn) trở thành một câu thành ngữ để nói về sự kiên trì bền bỉ không ngừng, nhiều lực lượng nhỏ bé tích tụ lại cũng có thể làm nên thành quả vô cùng to lớn.
6. Hậu tích bạc phát (Tích lũy nhiều, dùng ít một)
Đây là một câu trong “Giá thuyết tống Trương Hổ” của Tô Đông Pha: “Bác quan nhi ước thủ, hậu tích nhi bạc phát”, tức là đọc nhiều mà giữ lại ít, tích lũy nhiều mà dùng ít một. Ý nói rằng, đọc sách nhiều đến đâu cũng chỉ có thể chắt lọc tinh hoa mà giữ lại, tích lũy nhiều đến đâu cũng chỉ có thể dùng từ từ từng chút một.
7. Nhất nặc thiên kim (Lời hứa nghìn vàng)
Câu này xuất hiện trong “Quý Bố, Loan Bố liệt truyện”: “Đắc hoàng kim bách cân, bất như đắc Quý Bố nhất nặc”. Tạm dịch: Được trăm cân vàng, không bằng được một lời vâng của Quý Bố.
Ở nước Sở có một người tên là Quý Bố, tính tình cương trực trượng nghĩa. Chỉ cần là việc đã đồng ý làm thì bất kể khó khăn đến mấy anh ta cũng nghĩ cách làm cho bằng được, vì thế mà ai ai cũng đều nể trọng. Người ta nói: “Một lời hứa của Quý Bố còn đáng giá hơn nghìn vàng”. Nói lời giữ lời, sẽ có được tín nhiệm của thiên hạ.
8. Thái nhi bất kiêu (Thư thái mà không kiêu căng)
Trong “Luận ngữ” của Khổng Tử có đoạn vua Nghiêu nói”: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”, ý rằng người quân tử ban ơn mà không hao tổn, khổ cực mà không oán hận, mong muốn mà không tham lam, thư thái mà không kiêu căng, uy nghiêm mà không dữ tợn.
Ở đây chủ yếu bàn về những yêu cầu cơ bản đối với việc trị quốc mà Khổng Tử đề xuất, đồng thời nói đến giai đoạn lịch sử của ba vị “Tam hoàng”, khi vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ.
9. Vô dục tắc cương (Không cầu tự được)
Trong “Luận ngữ – Công dã tràng đệ ngũ” có đoạn:
Truyện kể lại rằng, một ngày nọ Khổng Tử đang thuyết giảng đạo lý cho các môn sinh, không kiềm lòng được bèn cảm thán: “Ta chưa từng gặp người nào thực sự kiên cường bất khuất”. Các đệ tử đều cảm thấy rất kỳ lạ, họ cho rằng người như vậy giống như Tử Lộ, ngoài ra còn có Thân Trành, đều là những người hết sức kiên cường bất khuất.
Nhất là Thân Trành, tuy rằng trẻ tuổi nhưng mỗi lần tranh luận cùng người khác thì không bao giờ dễ dàng nhượng bộ. Cho dù là đối với trưởng bối hay sư huynh thì cũng không kiêng nể chút nào, thái độ lúc nào cũng vô cùng cứng rắn cương quyết. Mọi người đối với anh ta đều ba phần nhượng bộ.
Cho nên các môn sinh khi nghe Khổng Tử cảm thán rằng chưa từng gặp qua người nào kiên cường thì không hẹn mà cùng nói: “Nếu nói về kiên cường thì Thân Trành là hoàn toàn xứng đáng thưa thầy!”.
Khổng Tử nói: “Thân Trành nhiều dục vọng, sao có thể gọi là kiên cường?”.
Một đệ tử hỏi: “Thân Trành không tham lam tiền tài, vậy sao Thầy lại nói anh ta nhiều dục vọng?”.
Khổng Tử trả lời: “Thực ra, cái gọi là dục vọng không phải chỉ nói về tham lam tiền tài. Nói một cách đơn giản, phàm là chưa rõ phải trái trắng đen liền tranh cãi với người khác thì cái tâm đó còn hơn cả tư tâm tư lợi, đó chính là ‘dục’. Thân Trành tuy rằng tính cách chính trực nhưng lại cậy mạnh tranh thắng, thường hành sự theo cảm tính, đây chính là một loại ‘dục’. Người như vậy làm sao có thể gọi là cương cường bất khuất?”.
Khổng Tử lại nói: “‘Cương’ cũng không phải là hiếu thắng khoe sức khoe tài, mà là một loại công phu tự khắc chế chính mình. Có thể khắc chế dục vọng của bản thân mình thì bất kể là ở hoàn cảnh nào cũng không đi ngược lại thiên lý, hơn nữa còn kiên định trước sau như một, không dễ dàng thay đổi, lúc này mới đúng là ‘cương’ chân chính”.
10. Dĩ hòa vi quý, khoan dung đại độ
Hồ đồ xét ra lại là một loại độ lượng khoan dung. Đôi khi không nên quá cầu toàn theo đuổi sự hoàn hảo, mà nên dùng thái độ dĩ hòa vi quý, khoan dung độ lượng với người khác. Nhìn vào ưu điểm của người khác để khoan dung độ lượng với họ, thêm một người bạn là thêm một đường đi, thêm một lối thoát. Khi bạn bao dung với người khác cũng chính là đang bao dung chính mình. Hãy có tấm lòng bao dung rộng lớn như biển cả với tất cả mọi người. Người có lòng bao dung khi làm việc cũng dễ gặt hái được thành công hơn.
11. Hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại (Biển nạp trăm sông, có thể dung chứa nên thành to lớn)
Câu này nguyên là từ “Tam quốc danh thần tự tán” của Viên Hoành mà ra: “Hình khí bất tồn, phương thốn hải nạp”. Lý Chu Hàn chú giải: “Lòng người phải giống như biển tiếp nạp trăm sông, ý nói là bao la rộng lớn, khoan dung độ lượng”.
Biển rộng có thể chứa nước của trăm sông, có thể dung chứa nên mới thành ra to lớn, “Hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại”. Có thể khoan dung độ lượng, rộng rãi phóng khoáng, đây cũng chính là biểu hiện của một người có tu dưỡng.
Kiên Định
Theo Sohu
Bạn đang đọc bài viết: “Thành công trên đường đời không khó, chỉ cần khắc ghi 11 đại trí tuệ của cổ nhân” tại chuyên mục Văn hóa của Đại Kỷ Nguyên. Để cập nhật thêm nhiều bài viết hay, quý độc giả vui lòng truy cập Fanpage chính thức của chúng tôi: facebook.com/DaiKyNguyenVanhoa/. Mọi ý kiến phản hồi và tin bài cộng tác xin gửi về hòm thư: daikynguyen.vanhoa@gmail.com. Xin chân thành cảm ơn! |