Đại Kỷ Nguyên

Thuộc những câu tinh hoa này của cổ nhân, bạn có thể thăng hoa tầng thứ (P.5)

Quý Tiện Lâm, nhà ngôn ngữ học Trung Quốc, nhà phiên dịch văn học, chuyên gia tiếng Phạn và tiếng Pali đã từng nói: Học thuộc 148 câu thơ cổ này, bạn có thể đề cao tầng thứ, không chỉ về phương diện văn học. Đối với những nhà thư pháp gia mà nói, học thuộc những bài thơ từ này, khai bút sẽ có thể dễ dàng trôi chảy rồi.

Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu với quý độc giả những câu cổ thi nổi tiếng trong kho tàng văn hoá truyền thống phương Đông, ngõ hầu khơi gợi lại phong vị cổ kính thanh tao dường như đều có trong sâu thẳm mỗi người. Trải qua mưa gió cuộc đời, chúng tôi tin rằng khi đọc những câu thơ cổ này, quý độc giả sẽ có nhiều chiêm nghiệm.

61.老驥伏櫪,志在千里;烈士暮年,壯心不已。(三國曹操龜雖壽)

“Lão ký phục lịch, chí tại thiên lý; Liệt sĩ mộ niên, tráng tâm bất dĩ” (Tam quốc – Tào Tháo – Quy tuy thọ).

Dịch nghĩa: Ngựa ký già cúi mình trong chuồng ngựa, chí ở nơi nghìn dặm. Kẻ sĩ lẫm liệt về già, tráng tâm vẫn không thôi.

Bản dịch thơ của Vũ Bội Hoàng:

“Ngựa già nằm chuồng

Chí ở bốn phương

Anh hùng lớn tuổi

Hăng hái như thường”.

Bài thơ “Quy tuy thọ” (Rùa tuy thọ) được Tào Tháo sáng tác vào năm ông 63 tuổi để tỏ chí mình. Ngựa ký là loại ngựa đương lúc sung sức có thể ngày chạy nghìn dặm, ví như kẻ anh hùng thuở còn tráng niên tung hoành tứ hải. Dẫu rằng cái chết là không thể tránh khỏi với ngay cả những giống loài sống thọ như rùa, rồng, Tào Tháo cho rằng thịnh suy dài ngắn của đời người đâu chỉ do Trời. Nếu con người biết “nuôi dưỡng phần phúc” thì có thể sống an hưởng lâu dài.

Ngựa ký già cúi mình trong chuồng ngựa, chí ở nơi nghìn dặm. Kẻ sĩ lẫm liệt về già, tráng tâm vẫn không thôi. (Ảnh: sohu.com)

62.山不厭高,海不厭深;周公吐哺,天下歸心。(三國曹操短歌行)

“Sơn bất yếm cao, hải bất yếm thâm; Chu Công thổ bộ, thiên hạ quy tâm” (Tam quốc – Tào Tháo – Đoản ca hành).

Dịch nghĩa: Núi không ngại cao, sông không ngại sâu; ta giống như Chu công tiếp đãi hiền tài, thiên hạ sẽ quy thuận về ta.

“Đoản ca hành” là tên một khúc nhạc phủ, thuộc Tương hoạ ca. Tào Tháo có hai bài, đây là bài thứ hai, thể hiện tráng chí và ý nguyện cầu hiền tài. Lời bài thơ trôi chảy, khí vận trầm hùng, tiêu biểu cho phong cách thơ của Tào Tháo. Bài thơ này được cho là sáng tác vào năm Kiến An thứ 13 (208), trong đêm trước trận chiến Xích Bích (Theo thivien.net).

63.非學無以廣才,非志無以成學。(三國諸葛亮誡子書)

“Phi học vô dĩ quảng tài, phi chí vô dĩ thành học” (Tam quốc – Gia Cát Lượng – Giới tử thư).

Dịch nghĩa: (Nếu) không học sẽ không mở rộng được cái tài, không có ý chí thì học sẽ không có thành quả.

Đây là câu nói trích từ “Thư dạy con” mà Gia Cát Khổng Minh viết cho con trai là Gia Cát Chiêm.

64.非淡泊無以明志,非寧靜無以致遠。(三國諸葛亮誡子書)

“Phi đạm bạc vô dĩ minh chí, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn” (Tam quốc – Gia Cát Lượng – Giới tử thư).

Dịch nghĩa: Không đạm bạc thì không tỏ rõ được chí hướng, không yên tĩnh thì không thể gây dựng được chí hướng cao xa.

Không đạm bạc thì không tỏ rõ được chí hướng, không yên tĩnh thì không thể gây dựng được chí hướng cao xa. (Ảnh: zhidao.baidu.com)

65.勿以惡小而為之,勿以善小而不為。(三國劉備)

“Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi, vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi” (Tam quốc – Lưu Bị).

Dịch nghĩa: Không được cho rằng việc xấu rất nhỏ mà làm, không được cho rằng việc thiện rất nhỏ mà không làm.

66.國以民為本,民以食為天。(西晉陳壽三國志)

“Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi Thiên” (Tây Tấn – Trần Thọ – Tam quốc chí).

Dịch nghĩa: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cơm ăn nước uống làm Trời.

Câu này ý nói quốc gia phải lấy dân làm gốc rễ, còn người dân bình thường thì coi cơm ăn áo mặc quan trọng như Trời. Thế nên, người trị vì dân chúng có sứ mệnh lo cho dân được cơm no áo ấm, vậy thì dân sẽ coi người đó như đại diện của Trời tại nhân gian vậy.

67.盛年不重來,一日難再晨。(東晉陶淵明雜詩)

“Thịnh niên bất trùng lai, nhất nhật nan tái thần” (Đông Tấn – Đào Uyên Minh – Tạp thi).

Dịch nghĩa: Tuổi tráng niên (thời hoàng kim) không đến lần nữa, một ngày khó có hai lần bình minh.

Hai câu thơ muốn nhắn nhủ con người hãy biết quý trọng thời gian, nỗ lực hết sức mình trong hiện tại.

Năm thịnh vượng (thời hoàng kim) không đến lần nữa, một ngày khó có hai lần bình minh. (Ảnh: jianshu.com)

68.不戚戚於貧賤,不汲汲於富貴。(東晉陶淵明五柳先生傳)

“Bất thích thích ư bần tiện, bất cấp cấp ư phú quý” (Đông Tấn – Đào Uyên Minh – Ngũ Liễu tiên sinh truyện).

Dịch nghĩa: Không lo lắng bởi nghèo hèn, không sốt sắng bởi phú quý.

Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, là một nhà thơ lớn thời Đông Tấn. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con, nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch. Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: “Ta lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!”. Ngay hôm ấy ông viết bài “Quy khứ lai từ” (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về.

Năm 418, lúc ông 53 tuổi, Lưu Dụ giết Tấn An Đế, chuẩn bị tiếm ngôi, có vời ông ra làm quan. Mặc dù đời sống rất thiếu thốn vì mùa màng thất thu, nhà cửa bị cháy sạch… nhưng ông cương quyết từ chối, được người đương thời ca tụng, gọi ông là “Tĩnh tiết tiên sinh”.

Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn.

Dịch Quân Tả, một học giả người Trung Quốc, đã dẫn lời của Tô Thức: “Uyên Minh muốn làm quan thì làm quan, không lấy việc cầu làm hiềm; muốn ở ẩn thì ở ẩn, không lấy việc ra đi làm cao. Đói thì gõ cửa mà xin ăn, no thì thịt gà cơm nếp đãi khách. Bậc hiền xưa nay đều quý sự chân thật ấy!”.

69.一年之計在於春,一日之計在於晨。(南朝蕭鐸)

“Nhất niên chi kế tại ư xuân, nhất nhật chi kế tại ư thần” (Nam triều – Tiêu Đạc)

Dịch nghĩa: Kế hoạch của một năm là (lập) vào mùa xuân, kế hoạch một ngày là (lập) vào bình minh.

Câu này ý muốn nói kế hoạch sớm từ ban đầu là chìa khoá của thành công.

Kế hoạch của một năm là (lập) vào mùa xuân, kế hoạch một ngày là (lập) vào bình minh. (Ảnh: 1688.com)

70.寧為玉碎,不為瓦全。(北齊書元景安傳)

“Ninh vi ngọc toái, bất vi ngoã toàn” (Bắc Tề Thư – Nguyên Cảnh An truyện).

Dịch nghĩa: Thà làm ngọc nát chứ không làm ngói lành.

Theo “Hoàng triều điển cố kỷ văn” (Huỳnh Chương Hưng dịch), Cao Dương đoạt lấy chính quyền Đông Nguỵ, kiến lập Bắc Tề. Để củng cố sự thống trị của mình, Cao Dương tiến hành thanh trừ họ Nguyên, quý tộc Đông Nguỵ.

Một ngày nọ, Cao Dương đến Tấn Dương, rất sợ quý tộc họ Nguyên thừa cơ tạo phản, bảo đem quý tộc họ Nguyên ra tru sát. Lúc bấy giờ, viên huyện lệnh Định Tương là Nguyên Cảnh An muốn xin được đổi sang họ Cao để khỏi chết.

Người anh họ của Nguyên Cảnh An là Nguyên Cảnh Hạo kiên quyết phản đối, nghiêm khắc nói rằng: “Làm sao có thể bỏ tổ tiên mà đổi sang họ khác được. Đại trượng phu thà làm ngọc nát chứ không thèm làm ngói lành”.

Theo Soundofhope.org
Như Ý biên dịch và chú giải

Exit mobile version