Quý Tiện Lâm, nhà ngôn ngữ học Trung Quốc, nhà phiên dịch văn học, chuyên gia tiếng Phạn và tiếng Pali đã từng nói: Học thuộc 148 câu thơ cổ này, bạn có thể đề cao tầng thứ, không chỉ về phương diện văn học. Đối với những nhà thư pháp gia mà nói, học thuộc những bài thơ từ này, khai bút sẽ có thể dễ dàng trôi chảy rồi.
Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu với quý độc giả những câu cổ thi nổi tiếng trong kho tàng văn hoá truyền thống phương Đông, ngõ hầu khơi gợi lại phong vị cổ kính thanh tao dường như đều có trong sâu thẳm mỗi người. Trải qua mưa gió cuộc đời, chúng tôi tin rằng khi đọc những câu thơ cổ này, quý độc giả sẽ có nhiều chiêm nghiệm.
71.當局者迷,旁觀者清。(新唐書元行沖傳)
“Đương cục giả mê, bàng quan giả thanh” (Tân Đường thư – Nguyên Hành Xung truyện).
Dịch nghĩa: Người trong cuộc thì mê hoặc, người ngoài cuộc thì minh bạch.
72.疾風知勁草,板蕩識誠臣。(唐太宗贈蕭禹)
“Tật phong tri kình thảo, bản đãng thức thành thần” (Đường Thái Tông – Tặng Tiêu Vũ).
Dịch nghĩa: Gió lớn mới biết cỏ cứng, hỗn loạn mới biết trung thần.
Tiêu Vũ (575-648) là con của vua Lương Nguyên Đế thời Lục Triều. Sau khi nước Lương mất, và nhà Đường đã thay thế nhà Tuỳ, ông quy phục nhà Đường, được phong quan chức, lên tới Thái tử thiếu sư. Đây là hai câu thơ đầu tiên trong bài “Ban tặng cho Tiêu Vũ” của Đường Thái Tông. Hai câu tiếp theo là: “Dũng phu an thức nghĩa, trí giả tất hoài nhân”, nghĩa là: Kẻ thất phu vũ dũng sao biết được điều nghĩa, người trí tuệ tất phải giữ điều nhân [1].
73.海內存知己,天涯若比鄰。(唐王勃送杜少府之任蜀川)
“Hải nội tồn tri kỷ, thiên nhai nhược tỉ lân” (Đường Vương Bột – Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục châu).
Dịch nghĩa: Trong cõi đời này còn có người tri kỷ, thì dẫu ở chân trời góc biển vẫn coi như là bên cạnh.
Đây là hai câu thơ trích từ bài “Tiễn Đỗ thiếu phủ đi nhậm chức ở Thục châu” của Vương Bột, một trong “Sơ Đường tứ kiệt” (4 nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường). Trong bài, Vương Bột tiễn bạn đi làm quan ở nơi xa, “cùng cảm thông với bạn nỗi xa cách” và lòng nhủ lòng “Hai ta xin đừng đứng ở ngã rẽ đường, khóc lóc như tuồng nhi nữ”.
74.欲窮千里目,更上一層樓。(唐王之渙登鸛雀樓)
“Dục cùng thiên lý mục, cánh thượng nhất tằng lâu” (Đường Vương Chi Hoán – Đăng Quán Tước lâu).
Dịch nghĩa: Muốn ngắm hết cảnh ngoài ngàn dặm, phải trèo thêm lên một tầng lầu.
Vương Chi Hoán, tự Lý Lăng là một nhà thơ thời Thịnh Đường, “có hiếu với nhà, có nghĩa với bạn, khảng khái vô tư, tài năng phóng khoáng”. Quán Tước lâu xưa (nay không còn) nằm tại nơi nay là huyện Vĩnh Thanh, tỉnh Sơn Tây, trên một ngọn núi nhỏ phía Tây Nam sông Hoàng Hà. Lầu cao năm tầng, phía trước xa xa có núi Trung Điều, phía dưới là sông Hoàng Hà, tầm mắt thoáng đãng. Tương truyền thường có chim Tước tới đậu tại nơi đây, nên mới gọi tên là Quán Tước lâu.
Đường thi là “ý tại ngôn ngoại”, hai câu thơ bề ngoài đơn giản nhưng có thể lý giải với nội hàm thâm sâu của văn hoá Thần truyền. Con người sống trên thế gian này dù giàu hay nghèo, sang hay hèn thực ra đều thuộc cùng một tầng thứ. Phật gia giảng, nhận thức của con người bị hạn cuộc vào những giả tướng mà đôi mắt thịt tạo ra. Nếu muốn nhìn thấu đến tận cùng bản chất của sự vật hiện tượng, con người chỉ có cách “trèo thêm một tầng lầu”, nghĩa là đề cao cảnh giới sinh mệnh, thông qua tu luyện mà trở thành sinh mệnh ở tầng thứ cao hơn.
75.黃沙百戰穿金甲,不破樓蘭終不還。(唐王昌齡從軍行)
“Hoàng sa bách chiến xuyên kim giáp, bất phá Lâu Lan chung bất hoàn” (Vương Xương Linh – Tòng quân hành).
Dịch nghĩa: Đánh hàng trăm trận trên sa mạc cát vàng này, mòn cả áo giáp. Chưa dẹp tan giặc Lâu Lan thì chưa về.
Vương Xương Linh, tự Thiếu Bá, là nhà thơ thời Thịnh Đường. Ông làm nhiều thơ hay, được người đời gọi là “Thi thiên tử”. Sở trường Vương Xương Linh là thơ thất ngôn tuyệt cú, được sánh ngang với Lý Bạch về thể thất tuyệt, nhất là thơ về đề tài biên tái.
Lâu Lan là một quốc gia cổ đại, tồn tại từ thế kỷ II TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan quốc nằm trên con đường tơ lụa và lãnh thổ phần lớn bao quanh bởi sa mạc. Lâu Lan từng là một thành bang lớn, cư dân đông đúc, ngoài thành đồng ruộng rộng rãi. Tuy nhiên, Lâu Lan đã lặng lẽ biến mất trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền, vào thời đại nhà Tấn, vị vua cuối cùng của Lâu Lan là một người vô cùng thông minh, khôn khéo, nhưng lại gian trá và xu nịnh. Lúc bấy giờ, vùng đất này có đến mấy loại tín ngưỡng, nhưng mọi người nơi đây phần nhiều chỉ kính Thần ngoài mặt còn trong tâm lại khinh mạn Thần.
Một lần nọ, quốc vương mời sứ thần của một nước khác đến tham quan một nơi tín ngưỡng tôn giáo, vị sứ thần đó vô cùng thành tâm bái lạy tượng Phật. Trong lòng quốc vương cảm thấy ông ta nghiêm túc và thành tín quá mức, trong lúc ăn cơm, quốc vương còn nói: “Ta trước nay chưa từng nhìn thấy Thần Phật hiển linh bao giờ, ta chẳng qua chỉ muốn cầu xin họ bảo hộ vị trí của ta mà thôi! Dù sao đi nữa nhà ngươi cũng không cần phải thành tâm quá mức như vậy!” Vị sứ thần nghe xong, vội vàng quỳ mọp xuống đất nói: “Xin ngài chớ có khinh mạn Thần Phật như vậy, nếu không ngài sẽ bị Trời phạt đấy!”
“Nói bậy! Cái gì mà Trời phạt chứ, ta đây mới chính là Trời!” Quốc vương rất không vui, lập tức đuổi vị sứ thần đó đi.
Một buổi sáng nọ, quốc vương và chúng đại thần đang bàn luận về việc vì sao lại đuổi vị sứ giả về, trong lúc nói chuyện còn xen lẫn vào những từ ngữ khinh mạn Thần Phật, chúng đại thần cũng hô hào hưởng ứng theo. Ngay lúc này, cát vàng mênh mông rợp trời dậy đất bỗng từ trên trời giáng xuống. Chỉ trong khoảnh khắc, thành Lâu Lan to lớn sừng sững đã biến thành biển cát, những người thoát được còn đang vui mừng thì chẳng bao lâu sau, một trận ôn dịch kéo đến khiến họ gần như không còn ai sống sót [2].
76.清水出芙蓉,天然去雕飾。(唐李白論詩)
“Thanh thuỷ xuất phù dung, thiên nhiên khứ điêu sức” (Đường Lý Bạch – Luận thi).
Dịch nghĩa: Hoa sen mọc lên từ nước trong, thiên nhiên không cần phải bài trí, gia công.
Lý Bạch, tự Thái Bạch, được đánh giá là một trong những ngôi sao chói lọi nhất của thi ca thời Đường. Ông được người đời sau tôn kính gọi là “Thi Tiên”. Lúc nhỏ, Lý Bạch học Đạo, ca vũ, múa kiếm, lớn lên lại thích ngao du sơn thuỷ, “chống kiếm viễn du”, từng đặt dấu chân lên khắp mảnh đất Trung Hoa. Thơ ông phóng khoáng, lãng mạn nhưng cũng rất nhân văn, sâu sắc, thoát tục, ẩn chứa triết lý tu Đạo thâm sâu.
77.大鵬一日同風起,扶搖直上九萬里。(唐李白上李邕)
“Đại bằng nhất nhật đồng phong khởi, phù dao trực thượng cửu vạn lý” (Đường Lý Bạch – Thượng Lý Ung).
Dịch nghĩa: Chim bằng một ngày cùng gió bay lên. Cưỡi trên gió lốc, bay thẳng lên chín vạn dặm.
Chim bằng, theo truyền thuyết là loài chim lớn nhất. Trong “Tiêu Dao Du”, Trang Tử viết: “Bể bắc có loài cá, tên nó là côn, bề lớn của côn không biết mấy nghìn dặm, hóa mà làm chim, tên nó là bằng, lưng của bằng không biết mấy nghìn dặm. Vùng dậy mà bay, cánh nó như đám mây rủ ngang trời”. Trong “Đại bằng ngộ hy hữu điểu phú” (Bài phú chim bằng gặp chim hiếm), Lý Bạch cũng viết: “Côn hóa thành Đại Bằng, bản thể ngưng kết thành phôi thai hỗn độn. Thoán rụng vây trên hải đảo, trước cổng trời giương cánh, Bột Hải trỗi vạn dặm sóng xuân, bay về phía đông nơi triều dương ấm áp. Lừng lẫy vũ trụ, bay vút cao vượt Côn Luân. Mỗi lần vỗ cánh, khói mây mù mịt, đất cát mịt mù. Ngũ Nhạc vì vậy mà rung chuyển, trăng sông vì vậy mà sạt trôi”.
Hai câu thơ của Lý Bạch khắc hoạ hình tượng chim bằng đầy chí khí hào hùng, gặp được thiên thời, cùng xuất phát với gió, lại có thể bay cao hơn gió, mượn gió mà bay lên. Ở hai câu sau: “Giả lệnh phong yết thời hạ lai/ Do năng bá khước thương minh thuỷ” (Nếu như gió ngừng mà hạ cánh, vẫn có thể khuấy động nước biển xanh), chim bằng không gặp thiên thời nữa nhưng vẫn mạnh mẽ oai hùng. Đây cũng chính là bức tranh tự họa của Lý Bạch, bậc trượng phu chọc trời khuấy nước, bất chấp được thời hay thất thế, phiêu diêu trong cõi Tiên hay chu du chốn hồng trần.
78.俱懷逸興壯思飛,欲上青天攬明月。(唐李白宣州謝餞別校書叔雲)
“Câu hoài dật hứng tráng tứ phi, dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt” (Đường Lý Bạch – Tuyên Châu Tạ tiễn biệt hiệu thư thúc Vân).
Dịch nghĩa: Lòng đầy dật hứng, tứ thơ hùng tráng bay lên. Muốn lên đến trời xanh để hái trăng sáng.
79.仰天大笑出門去,我輩豈是蓬蒿人。(唐李白南陵別兒童入京)
“Ngưỡng thiên đại tiếu xuất môn khứ, ngã bối khởi thị bồng hao nhân” (Đường Lý Bạch – Nam Lăng biệt nhi đồng nhập kinh).
Dịch nghĩa: Ngửa mặt trông trời cười lớn ra đi, chúng ta há chẳng vốn là thảo dân đó sao.
80.天生我材必有用,千金散盡還復來。(唐李白將進酒)
“Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, thiên kim tán tận hoàn phục lai” (Đường Lý Bạch – Tương tiến tửu).
Dịch nghĩa: Trời sinh tài ta hẳn có chỗ dùng, nghìn vàng tiêu hết rồi lại có.
Lý Bạch đặt bạc tiền ở vị trí thấp nhất, thấp hơn cả chén rượu, ánh trăng. Tiền vốn chỉ là vật ngoại thân, khi sinh chẳng mang đến, khi chết chẳng theo đi, hà cớ gì cứ phải coi nó như báu vật bất ly thân, một đời tranh đấu?
Theo Soundofhope.org
Như Ý biên dịch và chú giải
Chú thích:
[1] Một số bản dịch nghĩa và chú giải trong bài tham khảo từ thivien.net.
[2] Tham khảo từ: chanhkien.org.