Loạt bài viết này của tôi kể về thần thoại Hoa Hạ thuở khai thiên tịch địa, thế nhưng trước tiên tôi muốn ghi ra hai câu chuyện thần thoại thời Minh làm lời dẫn.
Trong những năm Vạn Lịch triều Minh, ở huyện Phu Thi, phủ Duyên An, tỉnh Thiểm Tây có một thôn trang nhỏ tên là Liễu Thụ Giản. Trong thôn có một thư sinh họ Lâm, tài học hành tuy giỏi nhưng số phận lại không may mắn, nhiều lần tham dự khoa cử nhưng thi không đậu. Gia cảnh bần hàn, anh bất đắc dĩ phải mở một gian nhỏ bên cầu Đông Thổ cách thôn Liễu Thụ Giản 60 dặm, làm nghề dạy trẻ kiếm sống qua ngày. Còn vợ của anh vẫn sống ở nhà trong thôn Liễu Thụ Giản.
Thiên thượng đưa Sát Tinh hạ phàm, là có duyên cớ gì?
Một hôm, người đàn ông họ Lâm đang trên đường trở về nhà từ cầu Đông Thổ, đi được nửa đường thì đột nhiên trời tối sầm, mưa lớn trút xuống. Không còn lựa chọn nào khác, anh buộc phải trú tạm trong một ngôi miếu cổ gần đó để tránh mưa. Ngôi miếu cổ có ba gian, tường vách đổ nát tới mức không tả nổi. Nhìn kỹ bức tượng được thờ cúng trong miếu, lớp sơn xiêm y màu vàng đã bong ra từng mảng, bàn hương án phía trước tượng cũng sắp sập, dường như đây là một ngôi miếu cổ không có người hương khói từ lâu. Thư sinh họ Lâm vốn muốn đợi mưa ngớt rồi mới đi tiếp, thế nhưng không ngờ trời mưa không ngớt khiến anh buồn rầu đứng lên, mở hành lý rồi nằm nghỉ trước bàn hương án.
Vừa chìm vào giấc ngủ, anh chợt nghe thấy tiếng người ồn ào ở hai hành lang. Mở mắt ra nhìn thì thấy nhiều sai dịch chạy qua chạy lại, người thì quét dọn, người thì vẩy nước, bận rộn tới lui. Hai bên trái phải có nhiều đầu bếp, bò, dê, heo, kê các loại đều đang bày sẵn ở đó. Cũng có nhiều phụ bếp cầm dao đang cắt gọt để chuẩn bị chế biến món ăn. Lại nhìn về phía trên từ đường của vị Thần được thờ cúng, thấy đèn nến rực rỡ, đồ trang trí đều rất lộng lẫy, không biết được đem từ đâu đến và được thay đổi lúc nào. Anh nhìn thấy một người đàn ông mặc áo choàng đỏ, đầu đội mũ miện, tay cầm thẻ lệnh, dáng người giống như đế vương, đích thân chỉ đạo mọi người thực hiện các việc. Ở gian chính giữa bày ra một bàn tiệc, bên cạnh bày đặt các loại nhạc cụ cổ, tựa hồ như đang chuẩn bị mở tiệc chiêu đãi khách quý. Ngoài cửa miếu, người nghe ngóng tin tức qua lại liên tục. Khoảng một lúc sau có một người vội vã vào bẩm báo: “Sát tinh hạ giới rồi! Sát tinh hạ giới rồi!”
Vị đội mũ miện mặc áo choàng đỏ vội vàng lao ra khỏi cổng miếu, chắp tay khom người, cung kính đứng chờ bên vệ đường. Lúc này người họ Lâm cũng đi theo ra cổng và đứng bên cạnh quan sát.
Ở xa xa trong mây mù, một đoàn người cùng ngựa, cầm giữ một chiếc xe, đang lao như bay tới.
Bao quanh hai bên, đều là những tiên nữ lộng lẫy. Tiếng nhạc đinh tai nhức óc rung trời. Dần dần đến gần mặt đất, người đàn ông mặc áo bào đỏ tiến lên mấy bước, chắp tay đứng ở nơi đó, thái độ càng thêm cung kính hơn. Trong nháy mắt, chiếc xe đã đáp xuống cổng miếu. Một người đàn ông quái dị bước xuống xe, tóc đỏ mặt xanh, răng nanh to tướng, lại không sợ người! Ông ta sải bước tiến đến vị trí chính giữa rồi ngồi xuống. Người khoác áo đỏ vẫn theo sát phía sau. Người đàn ông quái dị kia dường như không để ý đến việc người mặc áo choàng đỏ đang hành lễ hỏi thăm, y liền vỗ tay vào chiếu và hét lớn: “Mau đưa đồ ăn lên! Mau mau đưa đồ ăn lên! Đừng làm lỡ việc của ta!”
Người đàn ông mặc áo đỏ đang ngồi bên cạnh, nghe vậy lập tức gọi mười mấy người khiêng vô số cao lương mỹ vị của núi rừng đến trước mặt để cho y nhai. Những người còn lại đi theo cũng có đồ tiếp tế. Lúc bấy giờ, nhạc được tấu lên ở hai bên hành lang, có ca có vũ, vô cùng náo nhiệt. Sau khi ăn xong, tiệc cũng kết thúc. Người đàn ông mặc áo đỏ đứng dậy chắp tay khom lưng, hành lễ đối với người đàn ông quái dị kia, sau đó cầu khẩn: “Hôm nay Tinh Quân giáng lâm, tuy là thừa lệnh vua đế, nhưng đây cũng là kiếp số của vạn dân, không thể trốn miễn. Thế nhưng trong sự việc này, chỉ mong Tinh Quân lưu lại 3 phần hơi tàn cho vạn dân, vậy là đã cảm ơn ân đức không hết rồi”. Lời vừa nói xong, vị mặc áo đỏ liền chắp tay cung kính lắng nghe.
Sau khi nghe xong lời này, người đàn ông quái dị kia thoạt nhìn có vẻ tức giận như muốn nổ tung, nhưng sau đó y lại nghĩ đến việc người mặc áo bào đỏ đối đãi với mình rất lễ phép, cung kính như vậy, nên cảm thấy có chút xấu hổ. Thế nhưng y cũng không nói gì, chỉ gật đầu tỏ vẻ đồng ý rồi lập tức bước ra ngoài. Người mặc áo choàng đỏ vẫn tiễn y từ phía sau. Còn người đàn ông quái dị kia nhảy lên xe, xung quanh vẫn còn rất nhiều người theo hầu, dưới ánh đèn sáng trưng, y đi thẳng vào làng. Người đàn ông họ Lâm nhìn thấy đó là thôn Liễu Thụ Giản thì không khỏi hoảng hốt, kéo áo người mặc đồ màu đỏ hỏi: “Đây là loại quái vật gì vậy?” Người này trả lời: “Ngươi không cần phải hỏi, tương lai người này sẽ là học trò của ngươi đó”.
Người đàn ông họ Lâm nghe xong không khỏi giật mình kinh hãi. Bỗng nhiên tất cả ánh sáng và bóng người đều biến mất, ngước lên nhìn thì vẫn thấy bức tượng ngồi tọa ở trên. Sau khi nghĩ lại, anh mới phát hiện hóa ra bản thân vừa trải qua cơn ác mộng.
Lúc đó trời đã rạng sáng, mưa tạnh, anh vội trở về nhà, thấy trên bàn có một hộp kê gà đón tin mừng. Anh liền hỏi vợ: “Hộp kê gà này ai gửi tới vậy?” Vợ anh nói: “Tối hôm qua, Trương tẩu nhà bên cạnh mới sinh cậu con trai nên cô ấy gửi tới báo tin mừng”.
Người đàn ông họ Lâm nghe thấy điều này, trong lòng nghĩ thầm: “Tên Sát Tinh này, vốn được sinh ra ở đây. Ta phải xem tương lai y sẽ trở thành người như thế nào”. 5 năm sau, thư sinh họ Lâm vẫn làm nghề dạy học, người hàng xóm họ Trương kia lại dắt theo cậu con trai tới nhờ anh dạy đọc sách. Lâm tiên sinh đã đặt tên cho cậu bé này là Hiến Trung, đương nhiên trở thành học trò của anh. Thế nhưng cậu bé này rất ngốc nghếch, học hơn một năm mà vẫn không nhớ nổi chữ nào, cuối cùng đã bỏ học đi làm trộm cắp rồi làm cường đạo. Tới năm Sùng Trinh thì nổi dậy tạo phản.
Người cùng năm sinh, lại cùng tạo phản với y chính là Lý Tự Thành. Lúc Lý Tự Thành chào đời, dù không ai mộng thấy người này như thế nào, tuy nhiên chính sử có chép lại rằng cha của Lý Tự Thành một lòng trung thành với triều đình, bởi vì không có con trai nên ông đã đến núi Hoa Sơn cầu khấn và mơ thấy Thần Hoa Sơn nói với ông rằng: “Ta sẽ đưa Phá Quân tinh đến làm con của ngươi”. Về sau ông đã sinh ra Lý Tự Thành; vào thời cuối nhà Minh, người bị y giết cũng không phải ít.
Từ hai câu chuyện thần thoại này mà xét, vào cuối thời nhà Minh, trong cùng một năm mà Thiên Thượng đã đưa hai sao kỳ dị hạ phàm. Thế nhưng có một câu hỏi, từ trước tới nay, con người vẫn nói rằng ‘ông Trời có đức hiếu sinh’, vậy vì sao vào thời điểm này lại giáng hai Ma tinh xuống cõi người, liều mạng tàn sát dân chúng? Có người nói rằng vì lòng người kiêu căng, phóng túng quá độ, hoặc là tạo tội ác quá lớn nên Trời mới phái Tinh quân tới để cảnh cáo trừng phạt.
Nhưng với câu trả lời này, lý do lại thấy rất không thỏa đáng, tại sao như vậy? Những kẻ kiêu ngạo phóng túng, hung bạo gian ác, ông Trời thật sự cần phải trừng phạt một cách nghiêm khắc, nhưng tại sao Ngài lại không âm thầm giảm đi tuổi thọ của họ, sao không để họ hiểu rằng họ đang chuốc họa vào thân, sao phải phái Ma tinh xuống để đại khai sát giới, tạo thành cuộc chém giết kinh thiên động địa như vậy? Đây chẳng phải là ‘lấy hung bạo trừ hung bạo’ sao?
Tuy nhiên, sự việc này còn có một tầng ý nghĩa khác. Thế gian đại loạn, người chết vô số, vậy họ đều là người kiêu căng phóng túng sao? Không hẳn như vậy đâu! Nhìn vào những năm cuối thời Minh, Trương Hiến Trung và Lý Tự Thành do Ma tinh chuyển sinh, trong những người mà họ giết chết lại không có người lương thiện sao? Nếu tính toán cẩn thận thì trong đó còn có phụ nữ, trẻ em, người già, rất có thể họ toàn là người thiện lương. Lửa cháy đốt sâu bọ, ngọc đá đều bị thiêu hết. Quả nhiên, khi làm sự việc này, chính họ cũng bị thiêu. Đáp án về cảnh giới trừng phạt như thế này không thể nào giải thích vẹn toàn được. Vậy thì Thiên Thượng phái Ma tinh hạ phàm để đại sát nhân loại, đến tột cùng là có duyên cớ gì?
Hóa ra nhân gian có tình hình của nhân gian, thiên thượng cũng có tình hình của thiên thượng, đem sự việc ở thiên thượng xuống hạ giới để phản ánh ra, vậy là liền có thể biết được chân tướng rồi.
Trời bao dung vạn vật, nhưng khi tổng hợp lại thì chỉ biểu hiện ở hai chữ “Âm Dương”.
Ban ngày là Dương, ban đêm là Âm. Ấm áp tức giận là Dương, hàn lạnh mang theo sát khí là Âm, cho nên trên Trời các Thần cũng chia làm hai loại: một là Dương Thần, hai là Âm Thần. Chủ trương của Dương Thần là sáng tạo địa cầu, giúp vạn vật sinh sôi nảy nở, Ông đặc biệt chú ý đến sự an toàn và lợi ích của con người. Còn Âm Thần chủ trương phá hủy địa cầu, hủy diệt vạn vật, ghét cay ghét đắng sự tồn tại của nhân loại, nhất định phải hủy diệt hết nhân loại thì mới vui. Hai phe này như nước với lửa, như băng với than, tuyệt đối không tương thích với nhau, ở nơi nào khi hai thứ này cùng xuất hiện thì sẽ nảy sinh mâu thuẫn.
Từ xưa đến nay, loại xung đột này chưa bao giờ chấm dứt. Phái của Dương Thần do Tây Vương Mẫu dẫn đầu, hầu hết các vị Thần khác trong Mặt trăng và các vì sao khác đều sẵn sàng giúp đỡ bà. Còn phái Âm Thần do một vị Ma thần vô danh dẫn đầu, mà Hạ Canh, Tổ Trạng, Hoàng Kế, Nữ Sửu và các loại Ma thần có cùng chí hướng đều tới trợ giúp vị này. Vị nào được gọi là Thượng Đế chí cao vô thượng, chỉ có thể y theo hai phái này. Tuy rằng Ông thiên về phái Dương Thần hơn, nhưng bởi vì đạo Trời không thể chỉ có dương mà không có âm, nhân gian không thể chỉ có ngày mà không có đêm, sinh vật không thể chỉ sống mà không có chết, mọi sự không thể chỉ có thành mà không có hủy, cho nên đối với phái Âm Thần mà nói cũng không thể thiếu họ. Do đó, kể từ khi có lịch sử tới nay, loạn lạc hay thái bình là đều có nguyên do. Phái Dương Thần giành được quyền lực và cử rất nhiều Thiện Thần của mình xuống hạ giới để thống trị thiên hạ thái bình; nhưng phái Âm Thần lại tức giận, nhất định sai Ma Thần hạ phàm quấy phá để thiên hạ lâm vào cảnh hỗn loạn chết chóc.
Sau đó, phái Dương Thần nhìn thấy như thế là không được, liền sai các Chính Thần hạ xuống thế gian để chỉnh lý lại sự việc. Khi mà thế cục được tốt đẹp nhất thì phái Âm Thần lại sai Ma tinh hạ phàm làm rối loạn. Vì vậy, trong thời loạn lạc, chúng ta thấy những kẻ bần cùng gian ác, người cầm quyền cai trị đất nước ngược đãi dân chúng tới mức không còn luật pháp. Người dân lương thiện sống dưới sự cai trị của chính quyền tàn bạo, bị áp bức bóc lột, thậm chí người thân cũng không bảo vệ được, chỉ có thể nước mắt lưng tròng. Tất cả họ lại oán trách trời đất bất công, mắng Thượng đế hoa mắt ù tai. Kỳ thực không cần mắng, không cần oán, mà cần hiểu rằng ở thời điểm đó, trên Thiên Thượng cũng đang phát sinh xung đột, Ác Thần đoạt được thế còn Thiện Thần đang bị đánh lùi, đây là tình huống trên thiên thượng.
Trong loạt bài viết này, tôi kể ra những câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, vốn muốn kể về chuyện Đại Vũ trị thủy nhưng đã gọi là sử thì nhất định phải có nguồn gốc phát sinh sự việc, do đó không thể không kể về thời điểm khai thiên tịch địa. Thiên lấy gì để khai, địa lấy gì để tịch? Nguồn gốc địa cầu mà chúng ta đang sinh sống cũng giống như nhân loại, có sinh và có tử. Tuy nhiên cái chết của địa cầu không nhất định là toàn bộ địa cầu bị hủy hoại, chỉ cần các sinh vật sống trên địa cầu đều chết đi thì đó chính là địa cầu đã chết. Địa cầu lớn như vậy, ai có thể hủy diệt nó? Đương nhiên đó là ma lực của phái Âm Thần. Khai thiên tịch địa chính là việc địa cầu chết đi rồi hồi sinh trở lại. Vậy ai có năng lực giúp nó hồi sinh trở lại? Đương nhiên đó là năng lực của phái Dương Thần. Trước khi kể về việc khai thiên, tôi không thể không nói trước về sự việc địa cầu bị hủy hoại.
Có khoảng mười cách để hủy diệt Trái đất:
Một là khiến con người đói đến chết. Trên mặt đất, vốn có nước nhiều đất ít. Phần đất trên mặt nước là núi, sườn núi, chính là nơi sinh sống của con người. Tuy nhiên, đá núi nhô ra khỏi không khí, và sau khi bị xói mòn bởi nóng lạnh khô ẩm, chúng dần dần bị vỡ thành bột, theo nước mưa mà chảy xuống suối rồi tiến vào sông, từ sông đổ ra biển, dần dần lấp biển, nước biển dần dâng cao. Theo thời gian lâu dài, những ngọn núi cao bị san phẳng thành đất bằng và chim xuống dưới mặt nước. Khi đó con người không có nơi nào để ở, không thể chăn nuôi và trồng trọt, chẳng phải là muốn người phải chết đói ư?
Hai là khiến con người chết chìm. Hai nửa bán cầu Nam và Bắc có các mùa khác nhau. Ở nửa bán cầu Bắc số ngày của mùa mưa, thu và đông khác với số ngày của mùa mưa, thu và đông ở Nam bán cầu. Khí hàn ở Nam bán cầu nhiều, cho nên băng ở Nam Băng Dương được tích tụ ngày càng nhiều, còn băng ở Bắc Băng Dương cũng ngày một tan ra. Sau nhiều năm, băng ở Nam Băng Dương tích tụ nhiều và khó tan, còn băng ở Bắc Băng Dương dễ tan và dần ít đi. Do đó định vị của địa cầu cũng bởi vậy mà dịch chuyển theo. Ví dụ như, thời điểm mà Bắc Cực có khí hậu nóng nhất thì ở Nam Cực lại là lúc có khí hậu lạnh nhất, trọng tâm của địa cầu cũng thay đổi theo, Bắc nặng hơn và Nam nhẹ hơn, nước sẽ chảy từ Nam lên Bắc, bao phủ địa cầu, như vậy thì nhân loại chẳng phải sẽ bị chết chìm?
Ba là khiến nhân loại bị nổ tung mà chết. Trên bầu trời, cứ vài năm lại có một sao chổi lớn xuất hiện. Theo thời gian, khó có thể bảo đảm rằng chúng sẽ không va chạm với Trái đất, cho dù không va phải thiên thể của nó mà chỉ chạm vào đuôi của sao chổi thôi cũng sẽ khiến Trái đất đối diện với vụ nổ lớn. Bởi vì đuôi của sao chổi do khí nóng tụ lại tạo thành, nếu nó trộn với khí quyển của Trái đất thì cũng sẽ tạo nên một vụ nổ lớn và nghiền nát địa cầu thành bột. Như vậy thì hết thảy con người sống trên địa cầu này cũng tan tành.
Bốn là khiến con người bị đầu độc đến chết. Như đã đề cập ở trên, Trái đất va chạm với cái đuôi của sao chổi, ngay cả khi nó không tạo nên vụ nổ lớn khiến con người chết hết thì khí độc của nó cũng khiến con người không thể chịu đựng nổi. Nếu như con người hít phải nó thì sẽ bị đầu độc mà chết.
Năm là khiến con người chết vì nóng. Có một lớp không khí cực mỏng và cực nhỏ có thể cản trở sự vận hành của địa cầu, khiến nó chậm lại. Vì bị chậm lại nên lực ly tâm của nó tác dụng lên Mặt trời chắc chắn sẽ giảm đi, nhưng lực hút của Mặt trời đối với trái đất không thay đổi. Theo tình hình này, thời gian lâu dần, quỹ đạo của Trái đất quanh Mặt trời sẽ giống như chiếc đinh vít và tiến càng gần mặt trời hơn, như vậy thì vùng băng giá sẽ trở nên ấm hơn, khu vực ấm áp sẽ mưa không ngớt, vì thế mà con người sẽ chết vì nóng.
Sáu là khiến người bị ngột ngạt mà chết. Trong lòng Trái đất là đất và đá thuần túy, cả hai đều có khả năng hấp thụ nước, nếu đất và đá dần dần hút nước trên mặt đất, nước trong đại dương cạn hết, vậy thì lúc đó không khí nhất định sẽ bị loãng một cách bất thường, cho nên sự sống trên Trái đất sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, nhân loại cũng vì ngột ngạt mà chết.
Bảy là thiêu chết con người. Những ngôi sao trên bầu trời thường đột nhiên phát sáng rực rỡ, trải qua nhiều ngày, ánh sáng cũng dần tiêu tan. Ngôi sao đó không bao giờ được nhìn thấy nữa, có lẽ là nó đã bị tiêu hủy. Mặt trời của chúng ta cũng là một trong những ngôi sao. Nếu như Mặt trời đột ngột tắt, ánh sáng và nhiệt lượng mà Trái đất nhận được sẽ tăng lên hàng chục triệu lần, và loài người sẽ bị thiêu chết. Ngay cả khi họ không bị chết cháy, vì Mặt trời đã tắt và không có ánh sáng hay hơi nóng trên Trái đất, họ sẽ bị chết cóng.
Tám là đóng băng con người đến chết. Mặt trời phát sáng và tỏa nhiệt, cũng là toàn dựa vào quá trình thiêu đốt vật chất. Giả sử vật chất dùng để thiêu đốt dần cạn kiệt, vậy thì ánh sáng và nhiệt cũng sẽ giảm dần. Các vết đốm trên mặt trời ngày một nhiều lên, miệng núi lửa ngày một giảm đi, ánh sáng của nó dần dần chuyển sang màu vàng kim, rồi chuyển thành màu vàng, sau đó lại biến thành đỏ. Bề mặt Trái đất có nhiều đất liền hơn, đại dương lại ít hơn, nhiều không khí lạnh hơn và ít khí nóng hơn, như vậy chẳng phải con người sẽ chết cóng sao?
Chín là bóp chết con người. Bên trong lòng đất ngày càng lạnh đi, khi cực lạnh, nhất định bề mặt Trái đất sẽ co rút và nứt nẻ. Những năm gần đây, sạt lở đất, động đất thường xuyên làm lộ ra những vết nứt lớn, khiến cho con người, sự vật và sự việc đều bị đình trệ, chính là biểu hiện của hiện tượng này. Nếu cứ tiếp tục như vậy, con người sẽ cảm thấy sống trên mặt đất không ổn định nên phải vào trong hang cốc để sinh sống, nhưng lâu dần các hang lớn cũng bị bít lại do co rút, dẫn đến con người sẽ chết vì bị bóp nghẹt.
Mười là động đất khiến con người chết. Theo như nội dung đề cập ở trên, do Trái đất bị lạnh mà co rút nứt ra, lúc này, để duy trì sự sinh tồn, con người liền tìm một biện pháp lánh nạn, họ sẽ tránh xa những chỗ nứt. Thế nhưng chỗ nứt cũng sẽ theo từng năm mà gia tăng, địa cầu nứt toác chia thành mấy khối. Đến lúc đó, tại khối đất liền lớn vẫn có con người sinh sống, có lẽ vẫn có không khí, nhưng những khối địa cầu này lại lang thang trong không trung không có quỹ đạo. Khi nó càng rời xa quỹ đạo thì nó sẽ va chạm với các thiên thể khác, như vậy thì hết thảy con người sống trên đó cũng đều chết vì sự rung chuyển quá lớn này.
Trên đây là 10 cách hủy diệt Trái đất. Trong quá khứ, địa cầu trước kia của chúng ta đã chết như thế nào? Tuy rằng chúng ta không được biết một cách cụ thể, nhưng có tử ắt sẽ có sinh. Nếu như trước kia địa cầu chết đi, như vậy thì địa cầu mới sẽ lại được sinh ra một cách nhanh chóng. Về việc này thì đương nhiên phái Dương Thần sẽ chiếm ưu thế thượng phong.
Điển tích cổ đại về khai thiên tịch địa
Lúc khai thiên tịch địa, làm thế nào để tạo dựng một địa cầu mới ở chính vị trí cũ? Làm thế nào mà con người lại có thể sinh sôi phát triển? Đương nhiên đó là nhờ vào năng lực của Thần, năng lực của con người nhất định không thể làm nổi. Vì vậy, Bàn Cổ thị, Thiên Hoàng thị, Địa Hoàng thị, Nhân Hoàng thị và một số thị khác thuộc phái Dương Thần nhận ý chỉ tới để tạo dựng và cai quản thế gian.
Nếu đã là Thần thì đương nhiên họ sẽ có năng lực dời núi lấp biển, xoay chuyển trời đất. Theo những cuốn sách cổ ghi chép thì, lúc mới đầu hủy hoại địa cầu là do Hỗn Độn thị thuộc phái Âm Thần thực hiện. Bàn Cổ thị thuộc phái Dương Thần, nếu muốn khai mở trời đất sẽ không thể tránh khỏi việc phải đại chiến với Hỗn Độn thị. Không biết Bàn Cổ đã mất bao nhiêu sức lực để đánh bại Hỗn Độn, nhưng ngay sau đó lại Ông còn phải mổ xẻ thân thể của mình, lấy thịt của mình để bổ sung cho phần đất bị thiếu hụt, lấy xương bổ sung cho đá đã bị mất, còn máu dùng để bổ sung cho nước bị hao hụt, dùng khí tiết để đứng lên, khôi phục lại núi non tan vỡ, lấy dạ dày và ruột để khôi phục lại Trường Giang và Hoàng Hà đã bị mai một, sau đó lại từ từ tạo ra vạn vật rồi sinh ra nhân loại. Những tích truyện kỳ diệu này kể một đời cũng không hết, và các chuyện kể cũng không hoàn toàn giống nhau.
Nói chung, thời kỳ từ Bàn Cổ thị cho đến Hữu Sào thị trước đây, họ đều là các vị Thần của phái Dương Thần được cử xuống hạ giới để giải trừ trăm nạn, chăm sóc loài người. Từ Hữu Sào thị về sau, con người dần phát triển, họ biết dùng gỗ dựng lều ở để tránh mãnh thú, biết lấy lửa để nấu chín thức ăn, biết lấy da thú cùng lông chim để che đậy thân thể. Khi mà quần áo, đồ ăn, chỗ ở dùng cho con người đã hình thành ở mức thô sơ, phái Dương Thần đã gọi những vị được cử xuống trở về Trời, không ở lại nhân thế nữa.
Tuy nhiên, tài nghệ và tri thức của của con người lại chưa được hoàn thiện, điều này khiến con người vẫn không thể tồn tại tự lập được. Cho nên các vị chủ quản thuộc phái Dương Thần lại phái Thiện Thần hạ phàm, gián tiếp chỉ đạo trợ giúp con người. Giống như mẫu thân của Phục Hy, bà nhìn thấy một dấu chân lớn bên bờ sông ở Hoa Tư, chợt thấy vui vẻ, liền lấy chân mình ướm thử, vô tình trong tâm động mạnh, sau đó có một cầu vồng từ Trời xuống, bao quanh thân thể bà, rồi bà như say như dại. Sau khi tỉnh lại, bà liền mang thai mà sinh ra Phục Hy. Mẫu thân của Thần Nông tên là An Đăng, bà nhìn thấy một con Thần long, trong lòng cảm động, tự mang thai mà sinh Thần Nông. Mẫu thân của Hoàng Đế là Phụ Bảo, bà thấy điện quang vòng quanh Đấu tinh liền thấy trong lòng có cảm giác, rồi mang thai mà sinh ra Hoàng Đế. Đây đều là phái Dương Thần sai Thiện Thần giáng sinh.
Phái Dương Thần đã làm tất cả những việc này, nhưng phái Âm thần cũng không cam tâm từ bỏ. Vậy là những tai ương đã liên tiếp xuất hiện, đầu tiên sẽ là đại hồng thủy…
(Còn tiếp)
- Xem trọn bộ loạt bài: Thượng cổ bí sử
Theo Vision Times
San San biên dịch