Hans Christian Andersen là nhà văn nổi tiếng thế giới người Đan Mạch chuyên viết truyện cổ tích. Truyện của Andersen vừa mơ mộng tưởng tượng lại vừa hiện thực. Thế giới nhân vật trong truyện của ông vừa có những con người trong đời thực ở mọi tầng lớp, vừa có những nhân vật tưởng tượng hoặc lạ lùng như: nàng tiên cá, Bà Chúa Tuyết…, vừa có những đồ vật, đồ chơi ngộ nghĩnh như chú lính chì, đồng silinh bạc, con lợn ống tiền…, lại có cả động thực vật như chim họa mi, chim thiên nga, cây lúa mạch, cây thông…
Phong cách ấy biến những câu chuyện cổ tích của ông thành một dạng giống như ngụ ngôn. Truyện của ông đầy chất thơ và tưởng tượng phong phú nên cuốn hút trẻ nhỏ. Nhưng dưới hình thức mơ mộng ấy, nó hàm chứa cái nhìn sâu sắc và nhân ái của Andersen về cuộc đời, về con người, về tôn giáo với những triết lý nhân sinh thâm thúy rất hấp dẫn cả người lớn. Đó là yếu tố biến truyện cổ tích Andersen trở thành độc nhất vô nhị trong kho tàng cổ tích của nhân loại. Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu với bạn đọc loạt bài giới thiệu và phân tích những tác phẩm tiêu biểu của ông.
Rét dữ dội. Tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.
Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.
Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ!
Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.
Chiếc thứ nhất bị xe song mã nghiến, rồi dính theo tuyết vào bánh xe; thế là mất hút. Còn chiếc thứ hai, một thằng bé lượm được, cười sằng sặc, đem tung lên trời. Nó còn nói với em bé rằng nó sẽ giữ chiếc giày để làm nôi cho con chó sau này.
Thế là em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.
Chiếc tạp dề cũ kỹ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.
Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.
Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói cật rét, vẫn lang thang trên đường. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý.
Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân leo quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa.
Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi lại một chút.
Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.
Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.
Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác, sát mái nhà và, mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.
Chà! Giá quẹt một que diêm lên mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biếc đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.
Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kỳ diệu làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.
Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, cái ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm; đêm nay, về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên bàn bày toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi dĩa và mang cả dao ăn, phóng sét, cắm trên lưng, tiến về phía em bé.
Rồi… que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dầy đặc và lạnh lẽo.
Thực tế đã thay thế cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Noel. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây… nhưng diêm tắt. Tất cả những ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
– Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.
– Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Noel ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà; bà ơi! Cháu van bà, bà xin với Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Que diêm tắt phụt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất.
Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thượng đế.
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên tử thi em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”. Nhưng chẳng ai biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.
Lời bình:
Người viết bài tin rằng, từ khi có truyện “Cô bé bán diêm”, không ít thế hệ trẻ thơ của nhân loại đã từng rơi lệ khi đọc câu chuyện này. Trẻ thơ vốn giàu lòng trắc ẩn.
Người viết cũng từng nghĩ rằng đây là một câu chuyện buồn cho đến gần đây. Thực ra, đây không hẳn là một câu chuyện buồn. Nói đúng hơn thì có thể mượn lời của một nhà văn: “Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn, nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.
Cuộc đời của cô bé bán diêm gặp thật nhiều nghịch cảnh, đặc biệt xót xa trong đêm giao thừa. Trong thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, mọi người dẹp hết mọi công việc, trở về với gia đình đầm ấm, bên lò sưởi ấm áp, cùng chén món ngỗng quay thơm nức và ngắm cây thông Noel tuyệt đẹp trong ánh nến lung linh. Họ đang mơ ước về một năm mới nhiều hạnh phúc và may mắn. Thì khi ấy, cô bé bán diêm nghèo khổ chỉ mong có ai mua giúp một bao diêm, hoặc bố thí cho em chút đỉnh để em có thể về nhà mà không bị cha phạt đòn.
Nhưng không có ai như thế cả. Món hàng em bán là những bao diêm, thứ mang tới ngọn lửa, sự ấm áp và sinh khí cho mọi ngôi nhà, nhưng bản thân em thì dầm mình trong gió rét căm căm, với đôi chân trần tím bầm vì tuyết lạnh, bụng đói mốc meo. Và cái cơ thể bé bỏng ấy càng trở nên mong manh giữa thiên nhiên khắc nghiệt và lòng người lạnh giá.
Nhưng về nhà thì có hơn gì. Cũng vẫn đói, rét thế thôi. Còn cô đơn và buồn khổ hơn vì thứ đợi em ở đó không chỉ có đói rét mà là những lời chửi rủa và đòn roi của người cha nghiệt ngã. Thực ra, cái ổ chuột rét mướt và thiếu vắng tình thương đó cũng đâu thể gọi là nhà.
Điều tuyệt vời trong sáng và can đảm ở cô bé bán diêm là em không hề khóc than cũng không oán hận với người cha, với người đời vô tình, lạnh lẽo. Em cũng không van xin lòng thương xót của ai. Em cứ mải miết đi làm nhiệm vụ của mình. Mệt quá thì nghỉ và mơ ước.
Cô bé tội nghiệp mơ về những ngày còn hạnh phúc và no đủ với bà nội trong ngôi nhà xinh xắn phủ dây trường xuân. Em còn mơ được sưởi ấm, được ăn, được sống trong không khí gia đình ấm áp như bất cứ một cô bé bình thường nào trong đêm giao thừa như lẽ thường phải thế.
3 cây diêm cháy đã giúp em có được niềm vui ấy, dẫu nó chỉ là ảo ảnh vụt hiện vụt biến xen lẫn với hiện thực tàn khốc. Nhưng trải nghiệm từ cây diêm cháy thứ tư và những que diêm tiếp sau nữa thì không phải ảo ảnh. Trong giây phút linh hồn sắp rời bỏ thân thể ấy, thì em đã được gặp bà mình.
Người phương Tây theo Cơ Đốc Giáo tin rằng, những người sống hiền hậu, ngoan đạo, tin và làm theo lời Chúa đến khi chết sẽ được đón lên thiên đường. Là một người có đức tin Cơ Đốc, Andersen luôn luôn tin vào thiên đường trong những tác phẩm của ông.
Trong những tín ngưỡng Á Đông, những người lương thiện đã chịu khổ trong kiếp này là một hình thức trả nghiệp. Điều đón chờ họ sau khi qua đời là những điều tốt đẹp.
Với những người không tin vào thiên đường, thì đó là một ảo ảnh. Người ta chỉ tin vào điều mắt họ nhìn thấy: một cô bé nằm chết bên bao diêm rỗng, đơn giản là nó chỉ muốn sưởi ấm. Nhưng đêm trước, nhiều người trong số họ cũng đã nhìn thấy mảnh đời bất hạnh, nhỏ nhoi mà sự sống chỉ còn le lói trong thiên nhiên lạnh giá. Và họ đã làm ngơ. Không biết băng tuyết và lòng người, thứ nào lạnh hơn nữa.
Cho nên, điều họ không có diễm phúc được nhìn thấy là cảnh tượng huy hoàng lúc hai bà cháu hồi thăng. Điều đáng buồn thuộc về họ, vì thiên đường mãi mãi đóng cửa với những trái tim lạnh giá. Còn cô bé thì đâu còn gì đáng buồn, nợ đời đã trả xong, giờ em lại được đoàn tụ với người bà thân yêu nơi vĩnh viễn không còn đau khổ. Trên môi em thoáng nở một nụ cười mãn nguyện, một hạnh phúc ít người hiểu được.
Đã 170 năm trôi qua từ khi truyện “Cô bé bán diêm” ra đời, nhưng trên thế gian này vẫn còn rất nhiều các “cô bé bán diêm” khác. Có điều các em không bán diêm nữa. Có em bán kẹo chewing gum, có em bán vé số… nhưng các em cũng nghèo khổ và cơ cực không kém gì “cô bé bán diêm” của Andersen.
Chỉ mong rằng, mỗi chúng ta – những người may mắn hơn, khi tình cờ gặp cảnh ngộ của các em thì hãy động lòng trắc ẩn mà giúp đỡ trong khả năng của mình. Để trong tâm hồn chúng ta không còn chỗ cho băng tuyết, mà chính là ngọn lửa ngày càng ấm áp, được nuôi lớn lên và lan rộng mãi từ những que diêm bé nhỏ.
Lí Chình