Con người, dù thường xuyên nói dối, lại không ghét gì hơn sự dối trá, và cách hiệu quả nhất để thu hút sự tin tưởng của anh ta chính là sự chân thành.

Do đó, việc ca ngợi sự thật ở đây là không cần thiết. Không ai là không yêu mến sự thật và không cảm nhận được vẻ đẹp của nó. Không có gì tốt đẹp, không có gì đáng yêu mà không có sự thật; đó là lý trí, công bằng, là lẽ phải và là nền tảng của mọi sự hoàn hảo, là mục tiêu của các khoa học, và tất cả các nghệ thuật có đối tượng là sự bắt chước chỉ tồn tại để dạy dỗ và giải trí con người qua một sự mô phỏng trung thực của thiên nhiên. Đó là lý do tại sao những người tìm kiếm khoa học hoặc thực hành nghệ thuật không thể tự cho mình là hạnh phúc nếu sau tất cả những nỗ lực của họ, họ không tìm thấy được sự thật mà họ coi là phần thưởng xứng đáng cho những đêm dài thức trắng của mình.

Bên cạnh sự thật chung chung mà phải có mặt ở mọi nơi, còn có một sự thật trong từng ngành nghệ thuật và khoa học riêng biệt. Mục đích của tôi là làm sáng tỏ sự thật trong hội họa và chỉ ra tầm quan trọng của việc họa sĩ phải thể hiện sự thật một cách chính xác.

Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào vấn đề, cần phải biết rằng trong việc bắt chước trong hội họa, mặc dù đối tượng tự nhiên là thật và đối tượng trong bức tranh chỉ là giả tưởng, nhưng nó vẫn được gọi là thật khi nó mô phỏng hoàn hảo đặc điểm của mẫu vật. Chính vì vậy, tôi sẽ cố gắng làm rõ sự thật trong hội họa và làm nổi bật giá trị và sự cần thiết của nó.

Tôi tìm thấy ba loại sự thật trong hội họa:

  1. Sự thật đơn giản
  2. Sự thật lý tưởng
  3. Sự thật tổng hợp, hay sự thật hoàn hảo.
Hình nghiên cứu tỉ lệ tượng chân dung cổ đại.

Sự thật đơn giản mà tôi gọi là sự thật đầu tiên, là sự mô phỏng đơn thuần và trung thực những chuyển động biểu cảm của thiên nhiên và các đối tượng mà họa sĩ đã chọn làm mẫu, tái hiện chúng đúng như cách chúng hiện ra trước mắt chúng ta. Nhờ đó, làn da trong tranh trông như da thịt thật, các loại vải vóc được thể hiện như những chất liệu thực sự, với đầy đủ sự đa dạng của chúng. Mỗi chi tiết đều giữ được đặc trưng thật của tự nhiên, và thông qua sự hiểu biết về ánh sáng – bóng tối (clair-obscur) cùng sự hòa hợp của màu sắc, các đối tượng trong tranh dường như nổi lên với chiều sâu, tạo nên một tổng thể hài hòa.

Sự thật đơn giản này sử dụng mọi khía cạnh của tự nhiên để dẫn dắt họa sĩ đến mục tiêu cuối cùng, đó là một sự mô phỏng sống động và có sức thuyết phục về thiên nhiên, đến mức các hình ảnh trong tranh dường như có thể bước ra khỏi khung tranh để đối thoại với người xem.

Khi nói đến sự thật đơn giản, tôi không bàn đến những vẻ đẹp có thể tô điểm thêm cho sự thật đầu tiên này, dù chúng có thể được tạo nên nhờ tài năng thiên bẩm hoặc các quy tắc nghệ thuật, để biến nó thành một tổng thể hoàn hảo.

Sự thật lý tưởng là sự lựa chọn những vẻ đẹp hoàn mỹ khác nhau mà không bao giờ tồn tại trong một mẫu vật duy nhất, nhưng lại được tổng hợp từ nhiều mẫu vật khác nhau, thường là từ nghệ thuật cổ đại.

Sự thật lý tưởng bao hàm sự phong phú của ý tưởng, sự dồi dào của sáng tạo, sự hợp lý trong tư thế, sự thanh nhã của đường nét, sự lựa chọn biểu cảm đẹp, sự sắp xếp tinh tế của các loại vải vóc, và nói chung là tất cả những gì có thể làm cho sự thật đầu tiên trở nên hấp dẫn và thích hợp hơn mà không làm mất đi tính chân thực ban đầu. Tuy nhiên, tất cả những sự hoàn mỹ này, chỉ tồn tại dưới dạng ý niệm trong hội họa, cần một cơ sở hợp pháp để bảo tồn và thể hiện chúng một cách hiệu quả; cơ sở hợp pháp đó chính là sự thật đơn giản.

Điều này tương tự như các đức tính đạo đức: chúng chỉ là những ý niệm trừu tượng nếu không có một đối tượng xứng đáng để chứa đựng và duy trì chúng. Nếu không, chúng chỉ là những vẻ ngoài giả tạo hoặc những hình ảnh ảo giác của đức hạnh.

Tranh vẽ một người đàn ông, Jan van Eyck. (Wikipedia)

Sự thật đơn giản và sự kết hợp hoàn hảo

Sự thật đơn giản tự nó đã có giá trị, là gia vị làm tăng thêm vẻ đẹp của những sự hoàn hảo đi kèm với nó, là yếu tố làm cho những sự hoàn hảo đó trở nên sống động và có sức thuyết phục. Dù bản thân nó có thể không đủ để dẫn đến sự mô phỏng một thiên nhiên hoàn mỹ (điều này phụ thuộc vào sự lựa chọn mẫu vật của họa sĩ), nó ít nhất cũng hướng đến sự mô phỏng thiên nhiên nói chung, vốn là mục tiêu chính của người họa sĩ.

Điều chắc chắn là sự thật lý tưởng có thể tự mình dẫn dắt người xem đi trên một con đường rất thú vị, nhưng không thể hoàn thành trọn vẹn mục tiêu của nghệ thuật. Họa sĩ, khi chỉ dựa vào sự thật lý tưởng, sẽ bị kẹt giữa hành trình, và sự trợ giúp duy nhất để giúp anh ta hoàn tất con đường chính là nhờ vào sự thật đơn giản.

Do đó, có thể thấy rằng hai khái niệm sự thật đơn giản và sự thật lý tưởng khi kết hợp lại tạo thành một tổng thể hoàn hảo, trong đó chúng hỗ trợ lẫn nhau. Điều đặc biệt là sự thật đơn giản luôn tỏa sáng và tự khẳng định mình thông qua tất cả những sự hoàn hảo được kết hợp với nó.

Sự thật thứ ba, được tạo thành từ sự kết hợp giữa sự thật đơn giản và sự thật lý tưởng, chính là sự hoàn thiện cuối cùng của nghệ thuật, là sự mô phỏng hoàn hảo về vẻ đẹp của tự nhiên. Đây là cái thật đẹp thường trông thậm chí còn chân thực hơn cả sự thật, bởi sự kết hợp này cho phép sự thật đơn giản ngay lập tức chạm đến cảm nhận của người xem, xóa bỏ nhiều sự thiếu sót nhỏ, và tự nó khẳng định sức mạnh một cách tự nhiên mà không cần đến sự cố gắng chú ý.

Sự thật thứ ba: Đỉnh cao chưa ai chạm tới

Sự thật thứ ba, đỉnh cao của nghệ thuật, là một mục tiêu mà chưa ai hoàn toàn đạt được; người ta chỉ có thể nói rằng những người đến gần nhất với nó chính là những bậc thầy tài năng nhất. Sự thật đơn giản và sự thật lý tưởng đã được các họa sĩ chinh phục theo năng lực và sự đào tạo của họ.

Những danh họa như Giorgione, Titien, Pordenone, Palme l’Ancien, các họa sĩ nhà Bassano, và toàn bộ trường phái Venice đã xây dựng danh tiếng của mình chỉ nhờ vào việc nắm bắt sự thật đơn giản. Ngược lại, Leonardo da Vinci, Raphael, Giulio Romano, Polidoro da Caravaggio, Poussin, và một số họa sĩ khác của trường phái Roma đã đặt nền móng cho danh tiếng lớn lao của họ dựa trên sự thật lý tưởng, đặc biệt là Raphael. Raphael, ngoài việc làm chủ vẻ đẹp của sự thật lý tưởng, còn sở hữu một phần quan trọng của sự thật đơn giản, điều này khiến ông tiến gần hơn bất kỳ ai khác trong quốc gia của mình đến sự hoàn mỹ.

Thực tế, dường như để mô phỏng sự đa dạng của thiên nhiên, Raphael thường sử dụng nhiều mẫu khác nhau tương ứng với các nhân vật khác nhau mà ông muốn thể hiện. Nếu ông thêm điều gì từ phong cách cá nhân, thì đó là để làm cho các đường nét trở nên đều đặn hơn và biểu cảm hơn, trong khi vẫn giữ nguyên sự thật và nét đặc trưng riêng biệt của từng mẫu.

Mặc dù Raphael không hoàn toàn làm chủ sự thật đơn giản trong mọi khía cạnh của hội họa, ông lại có một tình yêu mãnh liệt với sự thật nói chung. Điều này được thể hiện qua cách ông phác họa hầu hết các phần cơ thể từ tự nhiên, sao chép chúng lên giấy như chúng thực sự tồn tại, để làm bằng chứng cho sự thật hoàn toàn đơn giản, đồng thời kết hợp với ý tưởng của ông về vẻ đẹp cổ đại. Đây là một phương pháp xuất sắc mà không họa sĩ nào sau thời kỳ phục hưng của hội họa có thể thực hiện thành công như Raphael!

Tác phẩm “Theology” của Raphael. (Walksinrome)

Về Sự Thật Hoàn Hảo và những giới hạn của nó

Vì Sự Thật Hoàn Hảo là sự kết hợp giữa Sự Thật Đơn Giản và Sự Thật Lý Tưởng, có thể nói rằng tài năng của các họa sĩ được đánh giá qua mức độ họ làm chủ hai khía cạnh này và khả năng khéo léo mà họ đạt được trong việc kết hợp chúng một cách hài hòa.

Sau khi đã xác lập được bản chất của Sự Thật trong hội họa, cần xem xét liệu các họa sĩ đã phóng đại các đường nét trong tác phẩm của mình để thể hiện sự hiểu biết có rơi vào việc từ bỏ sự thật bằng cách vượt qua ranh giới của sự giản dị hợp lý hay không.

Trong hội họa, người ta gọi những gì bị phóng đại một cách quá mức là “charge” (thô kệch hoặc bị làm quá). Và vì bất cứ điều gì bị làm quá đều không còn phù hợp với thực tế, chắc chắn rằng những gì được gọi là “charge” đều nằm ngoài khuôn khổ Sự Thật mà chúng ta vừa thiết lập. Tuy nhiên, có những đường nét bị làm quá nhưng vẫn mang lại sự thu hút, bởi chúng thoát khỏi vẻ tầm thường của tự nhiên thông thường và mang theo một cảm giác tự do cũng như một ý niệm về sự tao nhã cao cấp, điều này khiến không ít họa sĩ bị ấn tượng và gọi đó là “phong cách lớn”.

Nhưng những người có quan niệm đúng đắn về sự chỉnh chu, sự giản dị hợp lý, và vẻ thanh lịch tự nhiên sẽ coi những chi tiết thô kệch này là thừa thãi, vì chúng luôn làm biến đổi sự thật. Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng trong một số tác phẩm lớn, các yếu tố phóng đại có thể được ca ngợi khi khoảng cách hợp lý từ vị trí quan sát làm dịu bớt chúng trong mắt người xem, hoặc khi chúng được sử dụng một cách tinh tế để làm nổi bật hơn đặc tính của sự thật.

Có những họa sĩ, thay vì tìm kiếm sự cân đối vừa phải trong thiết kế của mình, lại cố ý nhấn mạnh đường nét và cơ bắp vượt quá mức độ chính xác mà nghệ thuật yêu cầu. Họ làm điều này với ý định được xem là những bậc thầy về giải phẫu học và để gây ấn tượng với hậu thế về gu thẩm mỹ trong thiết kế. Tuy nhiên, động cơ này, cũng như các tác phẩm của họ, lại mang một vẻ “khoa trương hàn lâm” làm giảm vẻ đẹp của tác phẩm nhiều hơn là tăng danh tiếng cho những họa sĩ đã tạo ra chúng.

Đúng là họa sĩ cần phải hiểu rõ giải phẫu học và những phóng đại sắc sảo phát sinh từ đó, vì giải phẫu học là nền tảng của thiết kế, và những phóng đại có thể giúp các nghệ sĩ đạt đến sự hoàn hảo nếu họ biết tiết chế, phối hợp giữa tính chính xác và sự giản dị trong thiết kế với gu thẩm mỹ tinh tế. Những phóng đại này có thể chấp nhận được và đôi khi còn hấp dẫn trong các bản phác thảo, vốn chỉ là ý tưởng sơ khai cho bức tranh. Người họa sĩ tài năng có thể sử dụng chúng một cách hữu ích khi bắt đầu và phác thảo tác phẩm, nhưng phải loại bỏ chúng khi muốn bức tranh đạt đến sự hoàn mỹ, giống như cách một kiến trúc sư loại bỏ dàn giáo sau khi hoàn thành vòm của mình.

Cuối cùng, các bức tượng cổ đại, vốn luôn được coi là chuẩn mực của cái đẹp qua mọi thời đại, không có bất kỳ yếu tố nào bị phóng đại hay gượng ép, cũng như các tác phẩm của những nghệ sĩ luôn tuân theo chuẩn mực đó như Raphael, Poussin, Dominichino và một vài người khác.

Không chỉ mọi sự gượng ép đều gây khó chịu, mà tự nhiên còn bị che khuất bởi lớp màn của thói quen xấu mà các họa sĩ gọi là “lối mòn” (Manière).

Để hiểu rõ nguyên tắc này, cần biết rằng có hai loại họa sĩ. Một số ít họa sĩ vẽ dựa trên các nguyên lý của nghệ thuật, và trong tác phẩm của họ, cái Thật (le Vrai) được thể hiện rõ ràng, đủ để cuốn hút người xem và mang lại cho họ niềm vui. Còn những họa sĩ khác chỉ vẽ theo thực hành, dựa trên thói quen mà họ tự hình thành một cách nhanh chóng, không suy ngẫm, hoặc họ học được từ thầy mình mà không thực sự phân tích. Họ đôi khi làm tốt một cách tình cờ hoặc nhờ ký ức, nhưng thường chỉ đạt mức trung bình khi sáng tác dựa vào khả năng tự thân. Vì hiếm khi sử dụng thiên nhiên làm nguồn cảm hứng hoặc chỉ giới hạn thiên nhiên trong khuôn khổ thói quen của họ, những người này không bao giờ thể hiện được cái Thật (le Vrai) hay cái Gần-Thật (le Vrai-semblable), vốn là mục tiêu duy nhất của một họa sĩ chân chính và là đích đến cuối cùng của hội họa.

Trong số tất cả các loại hình nghệ thuật, hội họa chắc chắn là nơi cái Thật cần được thể hiện rõ ràng nhất. Các nghệ thuật khác chỉ khơi gợi ý niệm về những thứ vắng mặt, trong khi hội họa thay thế hoàn toàn những điều đó và tái hiện chúng trước mắt ta nhờ vào bản chất của mình. Hội họa không chỉ đơn thuần làm hài lòng thị giác, mà còn đánh lừa nó.

Apelle vẽ chân dung chân thực và giống đến mức, từ nét biểu cảm chung đến từng chi tiết trên gương mặt, một thầy bói chiêm tinh khi nhìn các bức chân dung ấy có thể nói chính xác về tính khí của người được vẽ và những gì có thể xảy ra với họ. Như vậy, Apelle quan tâm nhiều hơn đến việc thể hiện sự chân thật (le Vrai) trong chân dung của mình hơn là làm đẹp chúng bằng cách thay đổi hoặc tô điểm quá mức.

Thực sự, cái Thật mang sức hút mạnh mẽ đến mức trong trường hợp này, nó luôn được ưu tiên hơn việc sử dụng những vẻ đẹp ngoại lai. Bởi lẽ, nếu thiếu đi cái Thật, chân dung chỉ có thể lưu giữ một ý niệm mơ hồ và không rõ ràng về những người bạn của ta, thay vì một đặc điểm thực sự phản ánh đúng con người họ.

Kết luận nào có thể rút ra từ toàn bộ lập luận này? Chẳng phải là trong hội họa tồn tại một cái Thật đầu tiên, một cái Thật cốt lõi, dẫn dắt họa sĩ tiến gần hơn đến mục tiêu của mình hay sao? Đó là một cái Thật sống động, không chỉ tự tồn tại và có sức sống riêng mà còn mang lại sức sống cho mọi vẻ đẹp hoàn thiện mà nó có thể tiếp nhận hoặc mà người ta muốn khoác lên nó. Những vẻ đẹp hoàn thiện ấy chỉ là những chân lý thứ cấp, vốn tự thân không mang bất kỳ sự sống nào, nhưng chúng làm tôn vinh cái Thật đầu tiên khi được gắn kết với nó. Và cái Thật đầu tiên trong hội họa, như chúng ta đã đề cập, là sự mô phỏng đơn giản và trung thực các chuyển động biểu cảm của tự nhiên cùng với các đối tượng được thể hiện đúng như cách chúng xuất hiện trước mắt chúng ta, với sự đa dạng và đặc điểm riêng của chúng.

Vì vậy, rõ ràng rằng bất kỳ họa sĩ nào không chỉ bỏ qua cái Thật đầu tiên này mà còn không dành sự chú trọng lớn lao để hiểu rõ và lĩnh hội nó trước hết, thì chỉ xây dựng trên cát, và sẽ không bao giờ được coi là một người mô phỏng tự nhiên thực sự. Đồng thời, mọi sự hoàn thiện của hội họa đều nằm trong ba loại Thật mà chúng ta vừa xác định.

Tác phẩm “Poetry” của Raphael. (Walksinrome)

BẢN SAO MỘT LÁ THƯ

của ông Du Guet, gửi tới một Quý bà có địa vị, người đã gửi cho ông luận thuyết trên và hỏi ý kiến của ông về nó.

Ngày 9 tháng Ba, năm 1704.

Thưa Quý bà,

Luận thuyết về cái Thật trong hội họa mà bà đã gửi cho tôi, đã dạy tôi nhiều điều và mang lại cho tôi một niềm vui vững chắc hơn cả những bài diễn thuyết mà bà biết rằng tôi đã rất hài lòng. Tác phẩm này không chỉ xuất hiện như một bản tóm lược các quy tắc, mà còn khám phá ra nền tảng và mục đích của chúng. Tôi đã học được với sự thỏa mãn sâu sắc bí quyết để hòa giải hai điều tưởng như đối lập: vừa bắt chước thiên nhiên vừa không bị giới hạn trong việc bắt chước đó; vừa thêm thắt vào vẻ đẹp của thiên nhiên để đạt tới nó, vừa chỉnh sửa nó để làm nổi bật những điều tốt đẹp nhất.

Cái Thật Đơn Giản cung cấp chuyển động và sự sống. Cái Lý tưởng chọn lựa một cách nghệ thuật tất cả những gì có thể làm đẹp nó và khiến nó trở nên cảm động; và nó không chọn ngoài cái Thật Đơn Giản, mặc dù có những phần thiếu sót, nhưng nhìn tổng thể thì lại phong phú.

Nếu cái Thật thứ hai không dựa vào cái Thật đầu tiên, nếu nó bóp nghẹt và ngăn cản cái Thật đầu tiên trở nên rõ ràng hơn so với tất cả những gì cái Thật thứ hai thêm vào, thì Nghệ thuật sẽ xa rời thiên nhiên, nó sẽ thể hiện chính nó thay vì thiên nhiên, chiếm lấy vị trí của thiên nhiên thay vì tái hiện lại nó, đánh lừa sự kỳ vọng của người xem mà không đánh lừa đôi mắt của họ, và chỉ cảnh báo về cái bẫy mà không biết cách tạo ra nó.

Ngược lại, nếu cái Thật đầu tiên, vốn nắm giữ toàn bộ sự thật về chuyển động và sự sống, nhưng không luôn có sự cao quý, chính xác và duyên dáng như những gì có ở nơi khác, mà thiếu sự trợ giúp của một cái Thật thứ hai luôn vĩ đại và hoàn hảo, thì nó chỉ hấp dẫn đến mức nó là dễ chịu và hoàn chỉnh; và bức tranh sẽ mất đi tất cả những gì thiếu sót trong mẫu hình của nó.

Do đó, việc sử dụng cái Thật thứ hai là để bổ sung những gì mà mỗi chủ đề thiếu, nhưng có thể có, và mà thiên nhiên đã phân tán trong những chủ thể khác, từ đó tập hợp lại những gì mà thiên nhiên gần như luôn luôn chia tách.

Cái Thật thứ hai, nếu nói một cách chính xác, gần như cũng thực tế như cái Thật đầu tiên: vì nó không sáng tạo gì, nhưng nó chọn lựa từ mọi nơi. Nó nghiên cứu tất cả những gì có thể làm hài lòng, có tính dạy dỗ và làm sống động. Không có gì thoát khỏi nó, ngay cả khi nó có vẻ như bị tình cờ bỏ qua. Nó dừng lại bằng Bố cục những thứ chỉ xuất hiện một lần; và nó làm giàu thêm với hàng nghìn vẻ đẹp khác nhau, để luôn giữ được sự đều đặn và không bao giờ lặp lại.

Đó là lý do, theo tôi, mà sự kết hợp của hai cái Thật này tạo ra một hiệu ứng tuyệt vời đến vậy: vì lúc đó, đó là sự mô phỏng hoàn hảo của những gì tinh tế nhất, cảm động nhất và hoàn hảo nhất trong thiên nhiên.

Mọi thứ lúc này đều giống thật, bởi vì tất cả đều là thật; nhưng mọi thứ đều gây ấn tượng, vì mọi thứ đều hiếm có. Mọi thứ đều tạo ra sự tác động bởi vì người ta đã quan sát mọi thứ có thể tạo ra điều đó; nhưng không có gì có vẻ như bị giả tạo, vì người ta đã chọn lựa cái tự nhiên khi chọn lựa cái kỳ diệu và hoàn hảo.

Việc đi lệch khỏi những quy tắc này và mục đích của hội họa là cố gắng làm nổi bật một vẻ đẹp này mà làm thiệt hại cho vẻ đẹp khác, hoặc muốn được đánh giá qua một phần thay vì toàn bộ. Bố cục, kiến thức về giải phẫu, thậm chí là ham muốn làm hài lòng và được khen ngợi đều phải nhường chỗ cho sự thật. Hội họa phải cuốn hút người xem ngay từ những khoảnh khắc đầu tiên, và chỉ khi đó, họ mới quay lại ngưỡng mộ tác phẩm của họa sĩ.

Ông de Piles đã rất khéo léo chỉ ra đặc điểm của Titien qua cái Thật đơn giản trong sức mạnh lớn nhất của nó, và của Raphael qua sự nâng cao của cái Thật khi kết hợp với lý tưởng; và tôi không biết liệu có thể thiết lập một cách đánh giá tinh tế và toàn diện hơn để xét đoán công lao của những họa sĩ vĩ đại nhất hay không, ngoài việc vượt lên trên những nỗ lực và thành công của họ, và chỉ ra điểm kết hợp của hai cái Thật mà họ phải tìm kiếm, nhưng không thể đạt được.

Tôi không biết, thưa bà, tại sao tôi lại nói nhiều như vậy, nhưng bà sẽ thấy qua đó tôi đầy ắp những gì tôi vừa đọc, và tôi đánh giá cao những điều mà tôi không thể không chia sẻ với bà, mặc dù tôi hiểu rằng mình đang làm chúng yếu đi và giảm giá trị.

Tôi là, thưa bà, với tất cả sự tôn trọng, người phục vụ khiêm tốn và luôn vâng lời của bà.

Giáp Thu Trang

Trích dịch từ: Roger de Piles: Cours De Peinture Par Principes. Paris: Estienne; Mergé, 1708.

Ảnh đại diện: Nghệ sĩ người Anh Paula Wilson làm mẫu cho các thí sinh lọt vào vòng chung kết Cuộc thi vẽ tranh nhân vật quốc tế NTD lần thứ 5 ở New York năm 2019. Nguồn: Epoch Times.